(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:
Chèo đi rán(1) thứ sáu
Thấy nước vằn mông mốc
Xé nhau đục vật vờ
Chèo đi thôi, chèo đi!
Một người cầm cán dầm cho vững,
Nước cuộn thác chớ lo
Biển nổi bão phong ba đừng run đừng rợn.
Chèo đi rán thứ bảy,
Nước ác kéo ầm ầm,
Nơi đây có quỷ dữ chặn đường,
Nơi đây có ngọ lồm(2) bủa giăng
Chực ăn người đi biển,
Chực nuốt tảng(3) nuốt thuyền
Mau mau lên lấy tiền, lấy tiền ra thế,
Đem vàng bạc ra lễ chuộc thân.
Có bạc mới được qua.
Chèo đi rán thứ tám,
Nước đổ xuống ầm ầm,
To hơn bịch đựng lúa.
Nước xoáy dữ ào ào,
Nước thét gào kéo xuống Long Vương.
Nhanh nhanh tay chèo sang qua khỏi.
Chèo đi rán thứ chín,
Trông thấy nước dựng đứng chấm trời,
Khắp mặt biển nước sôi gầm réo.
Biển ơi, đừng giết tôi,
Nước hỡi, đừng lôi lấy thuyền,
Đừng cho thuyền lật ngang,
Đừng cho tôi bỏ thân chốn này, biển hỡi!
Chèo đi rán thứ mười,
Thuyền lướt theo nước trời băng băng,
Cánh dầm tung bốn góc
Rán lại rán bay đi…
Chèo đến rán mười một,
Sóng đuổi sóng xô đi
Nước đuổi về sau lưng.
Chèo mau lên, chèo cố
Cho thuyền đến cửa biển ta dừng,
Cho thuyền đến bãi cát vàng bình an.
Chèo đi rán mười hai,
– A! Bờ biển kia rồi,
Ta chèo mau lên thôi,
Chèo mau lên, hỡi người trai trẻ!
Trai trẻ hãy lắng tai,
Trai trẻ nghe tôi bảo,
Lại đây nghe tôi dạy:
– Mau lên ta kéo thuyền vào cạn,
Cùng lôi tảng vào bến,
Kéo thuyền vào bãi cát chói hồng,
Kéo thuyền vào bãi bướm vàng vờn bay!
– Mời nàng hương(4) hai cô
Mời em hãy ôm hoa lên bến,
Mời nàng hãy ôm hương hầu slay
Quân quan lên “bời bời”(5)
Đàn bà cầm nón ra thuyền
Đàn ông cầm ô lên bến
Tay trái xách giày hoa ra tảng,
Tay phải xách giày đẹp lên bờ,
Gánh gồng lên rầm rập theo slay(6),
Bao của quý khiêng lên đi lễ người.
Mười hai rán nước nay đã qua rồi,
Bây giờ mới biết tôi sống sót.
Binh mã(7) slay rầm rập
Kéo vào chợ Đường Chu(8)
Sau lưng trơ lại tôi
Ngồi bên bờ biển đất trời mênh mông,
Tự than thân trách phận,
Cay đắng lắm đời sa dạ sa dồng(9).
Chèo thuyền qua lò than, qua biển
Nhìn đường về, nước cuộn ầm rung…
(Trích Vượt biển, Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam - Tập IV, tr.887 - 889)
Chú thích:
(1) Rán: Ghềnh nước hoặc những khúc sông, suối nước chảy xiết, vực sâu nguy hiểm đe dọa những người chèo mảng.
(2) Ngọ lồm: Quỷ vô hình.
(3) Tảng: Loại mảng rất kiên cố có thể đi biển được.
(4) Nàng hương: Nàng hầu của quan slay. Trong thực tế, đây là hai cô gái đẹp chưa chồng, đến phục dịch trà thuốc cho thầy pụt cúng. Theo quan niệm mê tín cũ, những cô gái này khi chết cũng vẫn làm nàng hầu cho quan slay ở xứ ma.
(5) Bời bời: Đông đúc.
(6) Slay: Quan cai trị ở “cõi ma” (âm phủ).
(7) Binh mã: Xe ngựa, quân lính nơi cõi âm.
(8) Chợ Đường Chu: Chợ ở “xứ ma”.
(9) Sa dạ sa dồng: Những người làm phu phen đầy tớ cho các quan slay ở cõi âm.
Tóm tắt: Vượt biển là truyện thơ dân gian của dân tộc Tày – Nùng, dài khoảng 1000 câu thơ. Nội dung như sau: Có hai anh em mồ côi, lúc nhỏ rất yêu thương nhau. Người anh sau này khi lấy vợ thì trở nên lạnh nhạt, bỏ mặc em sống nghèo đói. Người chị dâu thương tình, vá áo cho em chồng, chẳng may làm in những ngón tay đang nhuộm chàm lên lưng áo rách. Người anh ghen tuông khiến em bị chết oan ức. Linh hồn em không nơi nương tựa, bị các quan slay ở cõi âm bắt làm sa dạ sa dồng – phu chèo thuyền vượt biển. Mỗi lần vượt biển phải trải qua hành trình mười hai rán nước vô cùng hiểm nguy. Tác phẩm này được các thầy cúng đọc trong các lễ cầu hồn, cầu mát, được phổ biến rộng rãi ở vùng xung quanh hồ Ba Bể, Bắc Kạn.
Câu 1. Xác định người kể trong văn bản.
Câu 2. Hình ảnh “biển” hiện ra trong văn bản có đặc điểm gì?
Câu 3. Chủ đề của văn bản là gì?
Câu 4. Các rán nước trong văn bản là biểu tượng cho điều gì?
Câu 5. Những âm thanh nào được thể hiện trong đoạn thơ: Chèo đi rán thứ chín,/ Trông thấy nước dựng đứng chấm trời,/ Khắp mặt biển nước sôi gầm réo./ Biển ơi, đừng giết tôi,/ Nước hỡi, đừng lôi lấy thuyền? Những âm thanh đó gợi cho em cảm xúc gì?
Phó từ "chẳng" bổ aung ý nghĩa cho động từ "nghe"