Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Sơn Tinh, Thủy Tinh SVIP
SƠN TINH, THỦY TINH
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Ai là tác giả của văn bản trên?
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Phương thức biểu đạt nào được sử dụng trong đoạn thơ trên? (Chọn 2 đáp án)
SƠN TINH, THỦY TINH
Nguyễn Nhược Pháp
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Sắp xếp để làm rõ bố cục của văn bản.
- Khung cảnh Hùng Vương kén rể cho Mỵ Nương.
- Vẻ đẹp và hành động của Thủy Tinh.
- Lí giải lí do hằng năm Thủy Tinh dâng nước.
- Vẻ đẹp và hành động của Sơn Tinh.
- Cuộc giao tranh giữa hai vị thần.
SƠN TINH, THỦY TINH
Nguyễn Nhược Pháp
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Nối để lí giải các từ khó trong văn bản.
Bấm chọn dòng thơ trực tiếp thể hiện cảm xúc của Hùng Vương.
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh…
SƠN TINH, THỦY TINH
Nguyễn Nhược Pháp
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Qua những dòng thơ nói về Mỵ Nương, có thể thấy Mỵ Nương là cô gái như thế nào? (Chọn 2 đáp án)
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Trong đoạn thơ trên, Sơn Tinh không được tác giả khắc họa qua
Bấm chọn 2 dòng thơ làm rõ tâm trạng, cảm xúc của Mỵ Nương khi chứng kiến cuộc chiến của Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
SƠN TINH, THỦY TINH
Nguyễn Nhược Pháp
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Thủy Tinh đã có hành động nào khi biết mình đến chậm hơn Sơn Tinh và không cưới được Mỵ Nương?
SƠN TINH, THỦY TINH
Nguyễn Nhược Pháp
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Theo văn bản, Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể vì
SƠN TINH, THỦY TINH
Nguyễn Nhược Pháp
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Chọn phương án phù hợp.
Lời thoại của Mỵ Nương trong văn bản được dẫn
SƠN TINH, THỦY TINH
Nguyễn Nhược Pháp
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Chi tiết kì ảo trong văn bản không được khắc họa qua yếu tố nào?
SƠN TINH, THỦY TINH
Nguyễn Nhược Pháp
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Phân loại để làm rõ sự khác biệt giữa truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh và văn bản Sơn Tinh, Thủy Tinh của Nguyễn Nhược Pháp.
- Nhân vật được khắc họa qua ngoại hình, hành động, lời nói,...
- Nhân vật chức năng (không được bộc lộ qua lời nói, suy nghĩ, cảm xúc,...)
- Tập trung kể về các sự việc
- Kể kết hợp với yếu tố miêu tả, bộc lộ cảm xúc
Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh:
Văn bản Sơn Tinh, Thủy Tinh:
SƠN TINH, THỦY TINH
Nguyễn Nhược Pháp
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Khung cảnh cuộc sống đời thường nào được làm rõ qua văn bản?
SƠN TINH, THỦY TINH
Nguyễn Nhược Pháp
[Lược thuật phần I: Vua Hùng mở hội kén rể. Hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến thi tài và xin cưới công chúa Mỵ Nương xinh đẹp, nết na. Nhà vua giao hẹn: Sáng hôm sau ai mang lễ vật đến trước thì sẽ gả công chúa cho người đó.]
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngàn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lo thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn1 long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều2,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu3 bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu4!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành,
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà, lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai,
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa5.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quắc mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi, cuồng nhe răng,
Càng cua lởm chởm giơ như mác,
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, gió vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu, mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 25, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Nhạn: chim én.
2 Gấm điều: gấm màu đỏ.
3 Kiệu: phương tiện thời trước dùng để khiêng người đi đường, gồm một ghế ngồi có mui che.
4 Phong Châu: địa danh, kinh đô nước ta thời Hùng Vương.
5 Hoa: múa may (hoa chân, múa tay).
Chọn đúng/sai cho những nội dung liên quan đến văn bản Sơn Tinh, Thủy Tinh.
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Văn bản giải thích hiện tượng lũ lụt xảy ra hằng năm ở nước ta. |
|
b) Văn bản có sự xuất hiện của nhiều chi tiết kì ảo. |
|
c) Các nhân vật xuất hiện trong văn bản là các vị thần có phép lạ. |
|
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây