Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
Có người quan niệm: Giải thích chỉ là việc vận dụng lí lẽ, dẫn chứng để chứng minh.
Quan niệm trên đúng hay sai?
Những lĩnh vực nào cần sử dụng thao tác giải thích?
Trong văn nghị luận, phép lập luận giải thích được hiểu là gì?
Phép lập luận giải thích có thể kết hợp với các phép lập luận khác như chứng minh, bình luận, phân tích không?
Muốn viết được bài văn theo phép lập luận giải thích, cần phải nắm vững mục đích giải thích, vấn đề được giải thích, người cần được giải thích và cách giải thích.
Nhận xét trên đúng hay sai?
Quyền tự do là của quý báu nhất của loài người. Không có tự do, người ta cũng chỉ như súc vật.
Tự do ở đây không phải nghĩa là hoàn toàn muốn gì thì làm: một thứ tự do vô tổ chức, vô ý thức. Vì loài người sống thành đoàn thể, sống thành xã hội, cho nên phải hiểu tự do có nghĩa là muốn làm gì thì làm, nhưng làm theo lẽ phải, theo lí trí để không phạm tới sự tự do của người khác, và không phạm đến quyền lợi chung của đoàn thể.
Trái với tự do là nô lệ. Người nô lệ là người phải chịu phục tòng sự đè nén, sự sai khiến bất công của một người hay một thế lực nào khác mạnh hơn mình. Người nô lệ không còn có thể làm việc theo ý muốn của mình, theo tài năng của mình để mưu hạnh phúc cho mình nữa.
Không tự do tức là chết.
Văn bản trên có phải đoạn văn giải thích không?
Nghị luận, muốn cho đanh thép, phải rào trước đón sau, như vậy người đọc lại, rồi dần dần thúc vòng vây cho mỗi lúc một chặt thêm. Đác-uyn khi soạn cuốn "Nguồn gốc các loài vật", biết chắc sự phản động trong quần chúng sẽ mạnh, vì lí thuyết của ông rất táo bạo, muốn phá tan cả tín ngưỡng thiêng liêng đương thời nên ông phải tự đoán trước những lời chỉ trích rồi bỏ ra trên mười năm tìm những lí lẽ, chứng cứ xác đáng để rào trước những lời chỉ trích; nhờ vậy, khi sách ông xuất bản, đối phương chỉ tìm cách mỉa mai chứ không sao bác bỏ được.
(theo Nguyễn Hiến Lê, Hương sắc trong vườn văn)
Đoạn văn trên sử dụng thao tác lập luận nào?
Khi bạn em không chăm chỉ học tập, em giải thích cho bạn rằng: "Khi còn nhỏ không chịu học hành thì lớn lên không làm được việc gì to lớn cả".
Mục đích của em khi giải thích cho bạn là gì?
Có mấy cách giải thích trong một bài văn viết theo phép lập luận giải thích?
Theo em, nhận định sau đúng hay sai?
Trong phép lập luận giải thích có hai yếu tố, đó là:
(1) Điều cần được giải thích: vấn đề, hiện tượng, câu chữ, nhận định, ý kiến,...
(2) Cách giải thích: chỉ ra nguyên nhân, lí do, quy luật, nội dung hay mục đích, ý nghĩa của cái cần được giải thích.
Vai trò của dẫn chứng trong phép lập luận giải thích và lập luận chứng minh giống hay khác nhau?
Câu hỏi nào sau đây nêu ra khi muốn giải thích rõ nhất một điều gì đó trong phép lập luận giải thích?
Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, bao giờ cũng không ngừng học hỏi. Hoài bão lớn nhất của con người là tiến mãi không ngừng, nhưng không nhằm mục đích tự khoe khoang, tự đề cao cá nhân mình trước người khác.
(Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế)
Đoạn văn trên sử dụng phép lập luận nào?
LÒNG KHIÊM TỐN
Lòng khiêm tốn có thể được coi là một bản tính căn bản cho con người trong nghệ thuật xử thế và đối đãi với sự vật.
Điều quan trọng của khiêm tốn là chính nó đã tự nâng cao giá trị cá nhân của con người trong xã hội. Khiêm tốn là biểu hiện của con người đứng đắn, biết sống theo thời và biết nhìn xa. Con người khiêm tốn bao giờ cũng là người thường thành công trong lĩnh vực giao tiếp với mọi người.
Vậy khiêm tốn là gì? Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, bao giờ cũng không ngừng học hỏi. Hoài bão lớn nhất của con người là tiến mãi không ngừng, nhưng không nhằm mục đích tự khoe khoang, tự đề cao cá nhân mình trước người khác.
Người có tính khiêm tốn thường hay tự cho mình là kém, còn phải phấn đấu thêm, trau dồi thêm, cần được trao đổi, học hỏi nhiều thêm nữa. Người có tính khiêm tốn không bao giờ chịu chấp nhận sự thành công của cá nhân mình trong hoàn cảnh hiện tại, lúc nào cũng cho sự thành công của mình là tầm thường, không đáng kể, luôn luôn tìm cách để học hỏi thêm nữa.
Tại sao con người lại phải khiêm tốn như thế? Đó là vì cuộc đời là một cuộc đấu tranh bất tận, mà tài nghệ của mỗi cá nhân tuy là quan trọng, nhưng thật ra, chỉ là những giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. Sự hiểu biết của mỗi cá nhân không thể đem so sánh với mọi người cùng chung sống với mình. Vì thế, dù tài năng đến đâu, cũng luôn luôn phải học hỏi thêm, học mãi mãi.
Tóm lại, con người khiêm tốn là con người hoàn toàn biết mình, hiểu người, không tự cho mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công của cá nhân mình cũng như không bao giờ chấp nhận một ý thức chịu thua mang nhiều mặc cảm tự ti đối với mọi người.
Khiêm tốn là một điều không thể thiếu cho những ai muốn thành công trên con đường đời.
(theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế)
Bài văn trên nghị luận về vấn đề gì?
LÒNG KHIÊM TỐN
Lòng khiêm tốn có thể được coi là một bản tính căn bản cho con người trong nghệ thuật xử thế và đối đãi với sự vật.
Điều quan trọng của khiêm tốn là chính nó đã tự nâng cao giá trị cá nhân của con người trong xã hội. Khiêm tốn là biểu hiện của con người đứng đắn, biết sống theo thời và biết nhìn xa. Con người khiêm tốn bao giờ cũng là người thường thành công trong lĩnh vực giao tiếp với mọi người.
Vậy khiêm tốn là gì? Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, bao giờ cũng không ngừng học hỏi. Hoài bão lớn nhất của con người là tiến mãi không ngừng, nhưng không nhằm mục đích tự khoe khoang, tự đề cao cá nhân mình trước người khác.
Người có tính khiêm tốn thường hay tự cho mình là kém, còn phải phấn đấu thêm, trau dồi thêm, cần được trao đổi, học hỏi nhiều thêm nữa. Người có tính khiêm tốn không bao giờ chịu chấp nhận sự thành công của cá nhân mình trong hoàn cảnh hiện tại, lúc nào cũng cho sự thành công của mình là tầm thường, không đáng kể, luôn luôn tìm cách để học hỏi thêm nữa.
Tại sao con người lại phải khiêm tốn như thế? Đó là vì cuộc đời là một cuộc đấu tranh bất tận, mà tài nghệ của mỗi cá nhân tuy là quan trọng, nhưng thật ra, chỉ là những giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. Sự hiểu biết của mỗi cá nhân không thể đem so sánh với mọi người cùng chung sống với mình. Vì thế, dù tài năng đến đâu, cũng luôn luôn phải học hỏi thêm, học mãi mãi.
Tóm lại, con người khiêm tốn là con người hoàn toàn biết mình, hiểu người, không tự cho mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công của cá nhân mình cũng như không bao giờ chấp nhận một ý thức chịu thua mang nhiều mặc cảm tự ti đối với mọi người.
Khiêm tốn là một điều không thể thiếu cho những ai muốn thành công trên con đường đời.
(theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế)
Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống để hoàn thành những câu dạng định nghĩa nói về lòng khiêm tốn:
- Lòng khiêm tốn có thể được coi là căn bản cho con người trong nghệ thuật xử thế và đối đãi với sự vật.
- Con người khiêm tốn bao giờ cũng thành công trong lĩnh vực với mọi người.
- Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách , luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những luôn thước của đời, bao giờ cũng không ngừng học hỏi.
- Con người khiêm tốn là con người hoàn toàn biết mình, , không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công của cá nhân mình cũng như không bao giờ chấp nhận một ý thức chịu thua mang nhiều mặc cảm tự ti đối với mọi người.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
LÒNG KHIÊM TỐN
Lòng khiêm tốn có thể được coi là một bản tính căn bản cho con người trong nghệ thuật xử thế và đối đãi với sự vật.
Điều quan trọng của khiêm tốn là chính nó đã tự nâng cao giá trị cá nhân của con người trong xã hội. Khiêm tốn là biểu hiện của con người đứng đắn, biết sống theo thời và biết nhìn xa. Con người khiêm tốn bao giờ cũng là người thường thành công trong lĩnh vực giao tiếp với mọi người.
Vậy khiêm tốn là gì? Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, bao giờ cũng không ngừng học hỏi. Hoài bão lớn nhất của con người là tiến mãi không ngừng, nhưng không nhằm mục đích tự khoe khoang, tự đề cao cá nhân mình trước người khác.
Người có tính khiêm tốn thường hay tự cho mình là kém, còn phải phấn đấu thêm, trau dồi thêm, cần được trao đổi, học hỏi nhiều thêm nữa. Người có tính khiêm tốn không bao giờ chịu chấp nhận sự thành công của cá nhân mình trong hoàn cảnh hiện tại, lúc nào cũng cho sự thành công của mình là tầm thường, không đáng kể, luôn luôn tìm cách để học hỏi thêm nữa.
Tại sao con người lại phải khiêm tốn như thế? Đó là vì cuộc đời là một cuộc đấu tranh bất tận, mà tài nghệ của mỗi cá nhân tuy là quan trọng, nhưng thật ra, chỉ là những giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. Sự hiểu biết của mỗi cá nhân không thể đem so sánh với mọi người cùng chung sống với mình. Vì thế, dù tài năng đến đâu, cũng luôn luôn phải học hỏi thêm, học mãi mãi.
Tóm lại, con người khiêm tốn là con người hoàn toàn biết mình, hiểu người, không tự cho mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công của cá nhân mình cũng như không bao giờ chấp nhận một ý thức chịu thua mang nhiều mặc cảm tự ti đối với mọi người.
Khiêm tốn là một điều không thể thiếu cho những ai muốn thành công trên con đường đời.
(theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế)
Để giải thích về lòng khiêm tốn, tác giả đã sử dụng cách nào?
LÒNG NHÂN ĐẠO
Lòng nhân đạo tức là lòng biết thương người. Thế nào là biết thương người và thế nào là lòng nhân đạo?
Hằng ngày chúng ta thường có dịp tiếp xúc với đời sống bên ngoài, trước mắt chúng ta, loài người còn đầy rẫy những cảnh khổ. Từ một ông lão già nua răng long tóc bạc, lẽ ra phải được sống trong sự chăm sóc đùm bọc của con cháu, thế mà ông lão ấy phải sống kiếp đời hành khất(1), sống bằng của bố thí(2) của kẻ qua đường, đến một đứa trẻ thơ, quá bé bỏng mà lại sống bằng cách đi nhặt từng mẩu bánh của người khác ăn dở, thay vì được cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ....
Những hình ảnh ấy và thảm trạng ấy khiến cho mọi người xót thương, và tìm cách giúp đỡ. Đó chính là lòng nhân đạo.
Con người cần phải phát huy lòng nhân đạo của mình đối với mọi người xung quanh. Thánh Găng-đi(3) có một phương châm: "Chinh phục được mọi người ai cũng cho là khó, nhưng tạo được tình thương, lòng nhân đạo, sự thông cảm giữa con người với con người lại càng khó hơn. Điều kiện duy nhất để tạo sự kính yêu và mến phục đối với quần chúng, tốt nhất là phải làm sao phát huy lòng nhân đạo đến cùng và tột độ vậy".
(Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế)
(1) Hành khất: Đi ăn xin.
(2) Bố thí: Cho với thái độ làm phúc, làm ơn.
(3) Găng-đi (1869 - 1948): Nhà phê bình văn học Pháp.
Văn bản nghị luận "Lòng nhân đạo" sử dụng phép lập luận chính nào?
LÒNG NHÂN ĐẠO
Lòng nhân đạo tức là lòng biết thương người. Thế nào là biết thương người và thế nào là lòng nhân đạo?
Hằng ngày chúng ta thường có dịp tiếp xúc với đời sống bên ngoài, trước mắt chúng ta, loài người còn đầy rẫy những cảnh khổ. Từ một ông lão già nua răng long tóc bạc, lẽ ra phải được sống trong sự chăm sóc đùm bọc của con cháu, thế mà ông lão ấy phải sống kiếp đời hành khất(1), sống bằng của bố thí(2) của kẻ qua đường, đến một đứa trẻ thơ, quá bé bỏng mà lại sống bằng cách đi nhặt từng mẩu bánh của người khác ăn dở, thay vì được cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ....
Những hình ảnh ấy và thảm trạng ấy khiến cho mọi người xót thương, và tìm cách giúp đỡ. Đó chính là lòng nhân đạo.
Con người cần phải phát huy lòng nhân đạo của mình đối với mọi người xung quanh. Thánh Găng-đi(3) có một phương châm: "Chinh phục được mọi người ai cũng cho là khó, nhưng tạo được tình thương, lòng nhân đạo, sự thông cảm giữa con người với con người lại càng khó hơn. Điều kiện duy nhất để tạo sự kính yêu và mến phục đối với quần chúng, tốt nhất là phải làm sao phát huy lòng nhân đạo đến cùng và tột độ vậy".
(Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế)
(1) Hành khất: Đi ăn xin.
(2) Bố thí: Cho với thái độ làm phúc, làm ơn.
(3) Găng-đi (1869 - 1948): Nhà phê bình văn học Pháp.
Sắp xếp dòng sau để hoàn thành trình tự những ý chính mà tác giả nêu ra khi giải thích về lòng nhân đạo:
- Biết xót thương, tìm cách giúp đỡ những cảnh khổ.
- Lòng nhân đạo là lòng thương người.
- Loài người còn đầy rẫy những cảnh khổ.
- Phát huy lòng nhân đạo đến tột cùng và tột độ.
LÒNG NHÂN ĐẠO
Lòng nhân đạo tức là lòng biết thương người. Thế nào là biết thương người và thế nào là lòng nhân đạo?
Hằng ngày chúng ta thường có dịp tiếp xúc với đời sống bên ngoài, trước mắt chúng ta, loài người còn đầy rẫy những cảnh khổ. Từ một ông lão già nua răng long tóc bạc, lẽ ra phải được sống trong sự chăm sóc đùm bọc của con cháu, thế mà ông lão ấy phải sống kiếp đời hành khất(1), sống bằng của bố thí(2) của kẻ qua đường, đến một đứa trẻ thơ, quá bé bỏng mà lại sống bằng cách đi nhặt từng mẩu bánh của người khác ăn dở, thay vì được cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ....
Những hình ảnh ấy và thảm trạng ấy khiến cho mọi người xót thương, và tìm cách giúp đỡ. Đó chính là lòng nhân đạo.
Con người cần phải phát huy lòng nhân đạo của mình đối với mọi người xung quanh. Thánh Găng-đi(3) có một phương châm: "Chinh phục được mọi người ai cũng cho là khó, nhưng tạo được tình thương, lòng nhân đạo, sự thông cảm giữa con người với con người lại càng khó hơn. Điều kiện duy nhất để tạo sự kính yêu và mến phục đối với quần chúng, tốt nhất là phải làm sao phát huy lòng nhân đạo đến cùng và tột độ vậy".
(Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế)
(1) Hành khất: Đi ăn xin.
(2) Bố thí: Cho với thái độ làm phúc, làm ơn.
(3) Găng-đi (1869 - 1948): Nhà phê bình văn học Pháp.
Xác định nội dung từng phần của văn bản nghị luận trên bằng cách nối:
ÓC PHÁN ĐOÁN VÀ ÓC THẨM MĨ
Chính Xanh-tơ Bơ-vơ(1) cũng đã nói: "Tôi biết nhiều người có óc phán đoán rất đúng mà đồng thời lại thiếu óc thẩm mĩ, vì óc thẩm mĩ biểu hiện một cái gì tinh vi nhất, thuộc về bản năng nhất trong cái chỗ tế nhị mơ hồ nhất của các giác quan của ta".
Muốn thưởng thức một bài văn, ta đọc nó chầm chậm một hai lần, xem có cảm thấy cái hay của nó không đã; khi cảm được rồi, ta mới tìm hiểu nó hay ở chỗ nào. Ta dùng trái tim của ta trước rồi sau mới dùng lí trí. Nếu lòng ta không cảm thì càng phân tích lại càng không hiểu được gì cả. Văn học khác khoa học ở chỗ đó; và óc thẩm mĩ khác óc phán đoán cũng ở chỗ đó: một đằng là sự ưa thích của lòng, một đằng là sự sáng suốt của óc, một đằng cần nhiều cảm thụ tính, một đằng cần nhiều lí luận tính.
Nói vậy không phải là óc thẩm mĩ và óc phán đoán tương phản nhau mà ta không bao giờ dùng lí trí để hiểu được cái đẹp đâu. Vẫn có nhiều cái đẹp có thể giảng được và ai cũng thấy nó hợp lí: chỉ có một số tế nhị quá mới có những lí lẽ riêng của nó mà lí trí không sao phân tích nổi, và muốn nhận thức được, ta phải luyện mĩ cảm bằng cách sống thật nhiều, đọc nhiều tác phẩm bất hủ của mọi xứ và mọi thời.
(Theo Nguyễn Hiến Lê, Hương sắc trong vườn văn)
(1) Xanh-tơ Bơ-vơ (1804 - 1861): nhà phê bình văn học Pháp.
Tác giả đã dùng cách nào để giải thích về óc phán đoán và óc thẩm mĩ?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây