Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" được sáng tác bởi tác giả nào?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Nhà thơ Lí Bạch được mệnh danh là
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Bài "Xa ngắm thác núi Lư" còn có tên gọi khác là gì?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Bài thơ Vọng Lư sơn bộc bố được sáng tác theo thể thơ nào?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Ghép các từ Hán Việt có trong bài với nghĩa tương ứng:
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Từ nào dưới đây đồng nghĩa với từ "thi nhân"?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Yếu tố "tiền" trong từ nào dưới đây không có cùng nghĩa với những từ còn lại?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo các nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Dòng nào là dòng dịch nghĩa cho câu thơ sau?
Phi lưu trực há tam thiên xích.
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Dòng nào sau đây nêu đúng nghĩa của từ "tiền xuyên"?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Điểm nhìn của tác giả đối với toàn cảnh núi Lư là?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Tác giả chọn điểm nhìn từ xa để miêu tả thác núi Lư nhằm mục đích gì?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Vẻ đẹp của bức tranh thác núi Lư là?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Câu thơ đầu tiên miêu tả vẻ đẹp hòa quyện của mây, núi, nắng, hơi nước nhằm mục đích gì?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ được miêu tả có đặc điểm gì?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Qua việc miêu tả cảnh vật đã cho thấy nhà thơ là người có tâm hồn như thế nào?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống:
Với hình ảnh , huyền ảo, bài thơ Vọng Lư sơn bộc bố đã miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp nhìn từ xa của chảy từ đỉnh Hương Lô thuộc dãy núi Lư, qua đó thể hiện thiên nhiên đằm thắm và phần nào bộc lộ tính cách mạnh mẽ, hào phóng của tác giả.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Núi Lư thuộc địa phương nào?
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Nối cho đúng:
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Lí Bạch(*))
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
(Vọng: trông từ xa, Lư Sơn: núi Lư, bộc bố: thác nước, bố: vải, bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn từ xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống. Nhật: mặt trời, còn có nghĩa là ngày, chiếu: chiếu sáng, soi sáng, Hương Lô: tên đỉnh núi, sinh: làm nảy sinh, sinh ra, tử: màu đỏ tía, yên: khói.
Dao: xa, khan (khán): nhìn, xem, quải: treo, tiền: trước, phía trước mặt, xuyên: sông.
Phi: bay, lưu: chảy, trực: thẳng, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống, tam: ba, thiên: nghìn, xích: thước.
Nghi: ngờ, thị: là, Ngân Hà: sông Ngân, dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quan, lạc: rơi xuống, cửu thiên: chín phương trời, ở đây chỉ bầu trời.)
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô(1) khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này(2)
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Lí Bạch: (701 - 762), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc; lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên cũng là quê hương của mình. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Lí Bạch được mệnh danh là "tiên thơ". Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài thơ rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Vọng Lư sơn bộc bố là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư Sơn (Núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.
(1) Hương Lô: tên một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn. Núi cao có mây mù bao phủ, đứng xa trông như chiếc "lò hương" nên gọi là "Hương Lô".
(2) Câu này còn có một cách hiểu khác: Quải là "treo", tiền xuyên là "dòng sông phía trước". Có người cho "dòng sông phía trước" không phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy cả câu có nghĩa là: "Đứng xa trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt". Dù hiểu theo cách nào thì bản dịch thơ cũng đánh rơi mất chữ "treo", chữ quan trọng nhất của câu thơ.
Từ nào sau đây đồng nghĩa với từ 'vọng' ở nhan đề bài thơ?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây