Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Bài thơ Bạn đến chơi nhà của tác giả nào?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Thể thơ trong bài Bạn đến chơi nhà có đặc điểm gì?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Thể thơ của bài Bạn đến chơi nhà giống với thể thơ của bài thơ nào sau đây?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Trong các dòng sau, dòng nào là thành ngữ?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Từ nào sau đây đồng nghĩa với từ "cả" trong câu "Ao sâu nước cả khôn chài cá"?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Trong các dòng sau, từ nào sau đây không có quan hệ từ?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Từ câu thứ hai đến câu thứ sáu, tác giả nói đến sự thiếu thốn tất cả những điều kiện vật chất để đãi bạn.
Cách nói đó nhằm mục đích gì?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Nguyễn Khuyến đã sử dụng bút pháp nào khi kể hoàn cảnh tiếp bạn của mình?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Ghép các dòng sau để thấy được sự thiếu thốn, nghèo khó của gia cảnh khi tiếp bạn:
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Câu thơ "Bác đến chơi đây, ta với ta" ở cuối bài thơ có hàm ý gì?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Cụm từ "ta với ta" gợi nhắc tới câu thơ cuối của bài thơ nào dưới đây?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Cụm từ "ta với ta" trong bài thơ Bạn đến chơi nhà chỉ những ai?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Nối các dòng sau sao cho hợp lí:
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Điền đúng hay sai vào mỗi nhận xét dưới đây:
(Nhấp vào dòng để chọn đúng / sai)Hai bài thơ Qua Đèo Ngang và Bạn đến chơi nhà đều viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú. |
|
Hai bài thơ Qua Đèo Ngang và Bạn đến chơi nhà đều kết thúc bằng cụm từ "ta với ta", nhưng nội dung thể hiện của mỗi bài thơ lại hoàn toàn khác nhau. |
|
Hai bài thơ đều có cách nói giản dị, dân dã, dí dỏm. |
|
Hai bài thơ đã diễn tả tình bạn thân thiết, gắn bó của những tâm hồn tri âm. |
|
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống:
Bằng giọng thơ , cách dựng khó xử khi bạn đến chơi nhà, bài thơ đã thể hiện và khẳng định nội dung: chân thành có thể vượt lên tất cả mọi thứ của cải, tầm thường.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Nội dung thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến là gì?
Thơ trữ tình của Tam Nguyên Yên Đổ thể hiện tình yêu , đất nước, tấm lòng ưu ái đối với dân, những tình cảm , bạn bè; phản ánh cuộc sống của những con người nhưng thuần hậu, chất phác.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Nhà thơ gọi bạn bằng đại từ xưng hô nào?
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà(1),
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá(2),
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây(3), cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa(4).
Đầu trò tiếp khách, trầu không có(5),
Bác đến chơi đây, ta với ta!
(Nguyễn Khuyến(*), trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): Lúc nhỏ tên là Thắng, quê ở thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi, đỗ đầu cả ba kì: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về sống ở Yên Đổ.
(1) Có bản chép: Chẳng mấy khi nay, bác đến nhà.
(2) Có bản chép: khôn mò cá.
(3) Có bản chép: Cải đã tàn.
(4) Có bản chép: mướp vừa hoa.
(5) Có bản chép: Trầu buồn một nỗi, cau không có.
Bài thơ có kết cấu như thế nào?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây