Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Bài Qua Đèo Ngang do ai sáng tác?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Bài Qua Đèo Ngang thuộc thể thơ nào?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Đèo Ngang là địa danh thuộc tỉnh nào?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Cảnh đèo Ngang được miêu tả trong thời điểm nào?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Cảnh đèo Ngang trong hai câu thơ đầu được miêu tả như thế nào?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Chỉ ra những từ ngữ hiệp vần với nhau trong hai câu thơ đầu?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Trong câu: "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa" sử dụng nghệ thuật gì?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Nghệ thuật nổi bật được sử dụng trong câu 3, 4 là gì?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Nghệ thuật đảo ngữ, đối trong câu 3, 4 có tác dụng gì?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Nối các dòng sau sao cho hợp lí:
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Nối các dòng sau sao cho hợp lí:
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Từ láy nào trong bài gợi nên sự thưa thớt, ít ỏi?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Từ láy nào trong bài gợi dáng vẻ của những người tiều phu?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Từ tượng thanh nói đến nỗi nhớ nước, thương nhà nằm ở câu thơ nào trong bài?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Câu thơ 7, 8 trong bài có cách ngắt nhịp như thế nào?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Câu thơ "Một mảnh tình riêng, ta với ta" bộc lộ tâm trạng gì của tác giả?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Cụm từ "ta với ta" để chỉ ai?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Dòng nào sau đây nêu đầy đủ nhất biểu hiện của phép đối trong bài?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Tâm trạng của Bà huyện Thanh Quan được bộc lộ trực tiếp như thế nào?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Biện pháp nghệ thuật chính được sử dụng trong bài thơ là gì?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Dòng nào sau đây nói đúng tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài?
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang(1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều(2) vài chú,
Lác đác bên sông, chợ(3) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc(4),
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia(5).
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan(*),
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963)
Chú thích:
(*) Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có Qua Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa). Có luật bằng trắc. Không theo đúng những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).
(1) Đèo Ngang: thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy núi Trường Sơn, chạy thẳng ra biển, phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
(2) Tiều: người chuyên nghề đốn củi.
(3) Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà" vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4) Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim cuốc).
(6) Cái gia gia (cũng viết là cái đa đa): chim đa đa, còn gọi là gà gô.
Nội dung của tác phẩm "Qua Đèo Ngang" là gì? (Chọn 2 đáp án)
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây