Đặng Phương Thảo

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Đặng Phương Thảo
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Phân tích những ảnh hưởng của chế độ thực dân đến các quốc gia Đông Nam Á

 

Chế độ thực dân ảnh hưởng sâu rộng đến các quốc gia Đông Nam Á trên nhiều phương diện:

 

1. Kinh tế:

 

Tích cực:

 

Xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sắt, cầu cảng để phục vụ khai thác tài nguyên.

 

Giới thiệu một số cây công nghiệp có giá trị như cao su, cà phê, hồ tiêu.

 

 

Tiêu cực:

 

Nền kinh tế bị bóc lột, phụ thuộc vào chính quốc.

 

Người dân mất ruộng đất, phải làm phu đồn điền trong điều kiện khắc nghiệt.

 

Công nghiệp bản địa kém phát triển do bị thực dân kìm hãm.

 

 

 

2. Chính trị - Xã hội:

 

Tích cực:

 

Hình thành tầng lớp trí thức tiếp thu tư tưởng dân chủ phương Tây, từ đó thúc đẩy phong trào đấu tranh giành độc lập.

 

 

Tiêu cực:

 

Thiết lập bộ máy cai trị hà khắc, tước đoạt quyền tự do chính trị của người bản địa.

 

Chế độ phân biệt đối xử khiến xã hội bất bình đẳng.

 

 

 

3. Văn hóa - Giáo dục:

 

Tích cực:

 

Giới thiệu chữ Quốc ngữ ở Việt Nam, tiếng Anh ở Philippines… giúp phổ biến kiến thức và giao lưu văn hóa.

 

Hệ thống giáo dục theo kiểu phương Tây giúp nâng cao dân trí.

 

 

Tiêu cực:

 

Nền văn hóa bản địa bị mai một do chính sách đồng hóa.

 

Giáo dục hạn chế, chỉ phục vụ nhu cầu cai trị.

 

 

 

 

---

 

Liên hệ với Việt Nam

 

Về kinh tế: Việt Nam bị Pháp khai thác tài nguyên (than, cao su...), nền sản xuất bị đình trệ, nông dân mất đất, lao động khổ sai ở các đồn điền, hầm mỏ.

 

Về chính trị: Bộ máy cai trị thực dân đàn áp phong trào yêu nước, nhưng cũng tạo điều kiện cho các phong trào cách mạng sau này (như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam).

 

Về văn hóa: Pháp truyền bá chữ Quốc ngữ, nhưng cũng tìm cách làm suy yếu văn hóa dân tộc bằng chính sách đồng hóa.

 

 

Hiện nay, nhiều dấu ấn của thời kỳ thuộc địa vẫn còn: hệ thống đường sắt, kiến trúc Pháp, chữ Quốc ngữ vẫn được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải nỗ lực phát triển kinh tế độc lập và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

 

 

Quá trình xâm lược của thực dân phương Tây đối với các quốc gia Đông Nam Á hải đảo

 

Các quốc gia Đông Nam Á hải đảo gồm Indonesia, Philippines, Malaysia, Brunei, Đông Timor. Trong giai đoạn từ thế kỷ XVI đến XIX, thực dân phương Tây lần lượt xâm chiếm và biến khu vực này thành thuộc địa.

 

 

---

 

1. Tây Ban Nha xâm lược Philippines (1565 - 1571)

 

Năm 1565, Tây Ban Nha chiếm đảo Cebu, sau đó mở rộng sang các đảo khác.

 

Năm 1571, chiếm Manila, biến Philippines thành thuộc địa của Tây Ban Nha.

 

Triển khai chính sách truyền bá Công giáo, khai thác tài nguyên và bóc lột nhân dân bản địa.

 

 

Hệ quả: Philippines trở thành trung tâm thương mại và truyền giáo quan trọng của Tây Ban Nha ở châu Á.

 

 

---

 

2. Hà Lan xâm lược Indonesia (thế kỷ XVII - XIX)

 

Đầu thế kỷ XVII, Công ty Đông Ấn Hà Lan đến Indonesia, dần kiểm soát các đảo quan trọng như Java, Sumatra, Moluccas (quần đảo Gia vị).

 

Năm 1619, Hà Lan chiếm Batavia (nay là Jakarta), biến Indonesia thành thuộc địa quan trọng.

 

Dùng chính sách độc quyền thương mại, bóc lột tài nguyên (cà phê, hồ tiêu, đinh hương, quế…).

 

 

Hệ quả: Indonesia bị khai thác nặng nề, người dân nổi dậy đấu tranh nhưng bị đàn áp.

 

 

---

 

3. Anh xâm lược Malaysia và Brunei (thế kỷ XVIII - XIX)

 

Malaysia:

 

Cuối thế kỷ XVIII, Anh chiếm Penang (1786), Singapore (1819) và Malacca (1824).

 

Sau Hiệp ước Anh - Hà Lan (1824), Anh hoàn toàn kiểm soát Malaysia.

 

Khai thác thiếc, cao su và mở rộng đồn điền.

 

 

Brunei:

 

Năm 1888, Anh biến Brunei thành nước bảo hộ, kiểm soát tài nguyên dầu mỏ.

 

 

 

Hệ quả: Malaysia trở thành trung tâm kinh tế quan trọng, nhưng người dân bị bóc lột nặng nề.

 

 

---

 

4. Bồ Đào Nha xâm lược Đông Timor (thế kỷ XVI - XX)

 

Giữa thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha đến Đông Timor, khai thác gỗ đàn hương và truyền bá Công giáo.

 

Năm 1702, Bồ Đào Nha chính thức thiết lập chính quyền thuộc địa.

 

Giữ quyền kiểm soát đến năm 1975, khi Đông Timor tuyên bố độc lập.

 

 

Hệ quả: Đông Timor bị khai thác tài nguyên và chậm phát triển hơn so với các nước láng giềng.

 

 

---

 

Kết luận:

 

Quá trình xâm lược của thực dân phương Tây khiến Đông Nam Á hải đảo mất độc lập, bị bóc lột tài nguyên và chịu nhiều ảnh hưởng văn hóa. Tuy nhiên, quá trình thuộc địa cũng góp phần mở rộng giao lưu thương mại, du nhập Công giáo và phát triển một số ngành kinh tế.

 

 

Các cuộc phát kiến địa lí và sự mở rộng thị trường thương mại quốc tế , năm 1511 , Bồ Đào Nha đánh chiếm Malacca (Malaixia) , mở đầu quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây ở khu vực Đông Nam Á . 

Tại Philippin , từ thế kỉ XVI , Tây Ban Nha bắt đầu quá trình xâm lược và tổ chức bộ máy cai trị : áp đặt hệ thống hành chính mới với trung tâm là Manila ; mở rộng Thiên Chúa Giáo và nền văn hóa , giáo dục chịu ảnh hưởng của Tây Ban Nha. 

Năm 1898 , Mỹ thay thế Tây Ban Nha cai trị Philippin . Đàn áp các cuộc chiến tranh giành độc lập của người Philippin , rất nhiều người thiệt mạng . 

Tại Indonexia , từ thế kỉ XVII , Hà Lan bắt đầu xâm lược các tiểu quốc Hồi giáo . Đầu thế kỉ XIX , phần lớn quần đảo Indonexia nằm dưới ách đô hộ của thực dân Hà Lan . Hà Lan trực tiếp cai trị và tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa quy mô lớn với trung tâm chính trị đặt tại Batavia (nay là Giacacta) . Thuế khóa và áp bức nặng nề đối với dân thuộc địa .

Tại Malaixia , quá trình thực dân Anh xâm lược các tiểu quốc Hồi giáo đã diễn ra trong giai đoạn từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX , đưa tới sụe thành lập Mã Lai thuộc Anh . Cai trị gián tiếp thông qua các công sứ . Khai thác kinh tế được đẩy mạnh (thiếc và đồn điền cao su ,...v.v..) . Đưa nhiều lao động từ Trung Quốc và Ấn Độ đến làm việc . 

Tại Xingapo . Năm 1819 , thực dân Anh kí hiệp ước với các thủ lĩnh Hồi giáo địa phương để thiết lập cảng Xingapo . Năm 1824 , toàn bộ Xingapo trở thành thuộc địa của Anh . Cai trị trực tiếp , giao thương giữa châu Âu và châu Á .