Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Video 2 SVIP
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
BÀN LUẬN VỀ PHÉP HỌC
(Luận học pháp)
"Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo". Đạo là lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền(1). Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương(2), ngũ thường(3). Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.
Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò thường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trận cựu triều(4), đều tùy đâu tiện đấy mà đi học.
Phép dạy, nhất định theo Chu Tử(5). Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên đến tứ thư(6), ngũ kinh(7), chư sử(8). Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.
Đạo học thành người thì tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị.
Đó là mấy điều, thành thật xin dâng. Chẳng quản lời nói vu vơ, cúi mong Hoàng thượng soi xét.
Kẻ hèn thần cung kính tấu trình.
(La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp(*),
Theo La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II)
Chú thích:
(*) Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng thường gọi là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp là người "thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu", từng đỗ đạt, làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học. Quang Trung mấy lần viết thư mời ông cộng tác với thái độ rất chân tình nên cuối cùng Nguyễn Thiếp ra giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị. Khi Quang Trung mất, ông lại về ở ẩn cho đến cuối đời mà không hợp tác với nhà Nguyễn.
Bàn luận về phép học là phần trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8-1791. Tấu là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên cho vua chúa để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị (khác với tấu trong nghệ thuật hiện đại là một loại hình kể chuyện, biểu diễn trước công chúng, thường mang yếu tố hài). Tấu có thể được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần, văn biền ngẫu. Bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung bàn về ba điều mà theo ông bậc quân vương nên biết: quân đức (đức của vua), dân tâm (lòng dân), học pháp (phép học).
(1) Thất truyền: bị mất đi, không được truyền lại cho đời sau.
(2) Tam cương: ba mối quan hệ gốc trong xã hội phong kiến là quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ).
(3) Ngũ thường: năm đức tính của con người là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
(4) Cựu triều: triều vua cũ, ở đây chỉ nhà Lê.
(5) Chu Tử: Chu Hi (1130-1200), nhà nho nổi tiếng, đồng thời là nhà triết học, nhà giáo dục học thời Nam Tống.
(6) Tứ thư: bốn quyển sách tiêu biểu của Nho giáo: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung.
(7) Ngũ kinh: năm bộ sách kinh điển của Nho giáo: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.
(8) Chư sử: các cuốn sách sử có tiếng đời xưa (chư: từ chỉ số nhiều như trong chư vị, chư khách...)
Theo Nguyễn Thiếp, mục đích chân chính của việc học là gì?
BÀN LUẬN VỀ PHÉP HỌC
(Luận học pháp)
"Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo". Đạo là lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền(1). Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương(2), ngũ thường(3). Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.
Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò thường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trận cựu triều(4), đều tùy đâu tiện đấy mà đi học.
Phép dạy, nhất định theo Chu Tử(5). Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên đến tứ thư(6), ngũ kinh(7), chư sử(8). Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.
Đạo học thành người thì tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị.
Đó là mấy điều, thành thật xin dâng. Chẳng quản lời nói vu vơ, cúi mong Hoàng thượng soi xét.
Kẻ hèn thần cung kính tấu trình.
(La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp(*),
Theo La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II)
Chú thích:
(*) Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng thường gọi là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp là người "thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu", từng đỗ đạt, làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học. Quang Trung mấy lần viết thư mời ông cộng tác với thái độ rất chân tình nên cuối cùng Nguyễn Thiếp ra giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị. Khi Quang Trung mất, ông lại về ở ẩn cho đến cuối đời mà không hợp tác với nhà Nguyễn.
Bàn luận về phép học là phần trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8-1791. Tấu là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên cho vua chúa để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị (khác với tấu trong nghệ thuật hiện đại là một loại hình kể chuyện, biểu diễn trước công chúng, thường mang yếu tố hài). Tấu có thể được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần, văn biền ngẫu. Bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung bàn về ba điều mà theo ông bậc quân vương nên biết: quân đức (đức của vua), dân tâm (lòng dân), học pháp (phép học).
(1) Thất truyền: bị mất đi, không được truyền lại cho đời sau.
(2) Tam cương: ba mối quan hệ gốc trong xã hội phong kiến là quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ).
(3) Ngũ thường: năm đức tính của con người là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
(4) Cựu triều: triều vua cũ, ở đây chỉ nhà Lê.
(5) Chu Tử: Chu Hi (1130-1200), nhà nho nổi tiếng, đồng thời là nhà triết học, nhà giáo dục học thời Nam Tống.
(6) Tứ thư: bốn quyển sách tiêu biểu của Nho giáo: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung.
(7) Ngũ kinh: năm bộ sách kinh điển của Nho giáo: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.
(8) Chư sử: các cuốn sách sử có tiếng đời xưa (chư: từ chỉ số nhiều như trong chư vị, chư khách...)
Tác hại lớn nhất của những lối học mà tác giả phê phán là gì?
BÀN LUẬN VỀ PHÉP HỌC
(Luận học pháp)
"Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo". Đạo là lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền(1). Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương(2), ngũ thường(3). Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.
Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò thường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trận cựu triều(4), đều tùy đâu tiện đấy mà đi học.
Phép dạy, nhất định theo Chu Tử(5). Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên đến tứ thư(6), ngũ kinh(7), chư sử(8). Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.
Đạo học thành người thì tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị.
Đó là mấy điều, thành thật xin dâng. Chẳng quản lời nói vu vơ, cúi mong Hoàng thượng soi xét.
Kẻ hèn thần cung kính tấu trình.
(La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp(*),
Theo La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II)
Chú thích:
(*) Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng thường gọi là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp là người "thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu", từng đỗ đạt, làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học. Quang Trung mấy lần viết thư mời ông cộng tác với thái độ rất chân tình nên cuối cùng Nguyễn Thiếp ra giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị. Khi Quang Trung mất, ông lại về ở ẩn cho đến cuối đời mà không hợp tác với nhà Nguyễn.
Bàn luận về phép học là phần trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8-1791. Tấu là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên cho vua chúa để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị (khác với tấu trong nghệ thuật hiện đại là một loại hình kể chuyện, biểu diễn trước công chúng, thường mang yếu tố hài). Tấu có thể được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần, văn biền ngẫu. Bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung bàn về ba điều mà theo ông bậc quân vương nên biết: quân đức (đức của vua), dân tâm (lòng dân), học pháp (phép học).
(1) Thất truyền: bị mất đi, không được truyền lại cho đời sau.
(2) Tam cương: ba mối quan hệ gốc trong xã hội phong kiến là quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ).
(3) Ngũ thường: năm đức tính của con người là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
(4) Cựu triều: triều vua cũ, ở đây chỉ nhà Lê.
(5) Chu Tử: Chu Hi (1130-1200), nhà nho nổi tiếng, đồng thời là nhà triết học, nhà giáo dục học thời Nam Tống.
(6) Tứ thư: bốn quyển sách tiêu biểu của Nho giáo: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung.
(7) Ngũ kinh: năm bộ sách kinh điển của Nho giáo: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.
(8) Chư sử: các cuốn sách sử có tiếng đời xưa (chư: từ chỉ số nhiều như trong chư vị, chư khách...)
Theo Nguyễn Thiếp, khi không học thực chất dẫn đến hậu quả gì?
BÀN LUẬN VỀ PHÉP HỌC
(Luận học pháp)
"Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo". Đạo là lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền(1). Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương(2), ngũ thường(3). Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.
Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò thường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trận cựu triều(4), đều tùy đâu tiện đấy mà đi học.
Phép dạy, nhất định theo Chu Tử(5). Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên đến tứ thư(6), ngũ kinh(7), chư sử(8). Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.
Đạo học thành người thì tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị.
Đó là mấy điều, thành thật xin dâng. Chẳng quản lời nói vu vơ, cúi mong Hoàng thượng soi xét.
Kẻ hèn thần cung kính tấu trình.
(La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp(*),
Theo La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II)
Chú thích:
(*) Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng thường gọi là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp là người "thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu", từng đỗ đạt, làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học. Quang Trung mấy lần viết thư mời ông cộng tác với thái độ rất chân tình nên cuối cùng Nguyễn Thiếp ra giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị. Khi Quang Trung mất, ông lại về ở ẩn cho đến cuối đời mà không hợp tác với nhà Nguyễn.
Bàn luận về phép học là phần trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8-1791. Tấu là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên cho vua chúa để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị (khác với tấu trong nghệ thuật hiện đại là một loại hình kể chuyện, biểu diễn trước công chúng, thường mang yếu tố hài). Tấu có thể được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần, văn biền ngẫu. Bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung bàn về ba điều mà theo ông bậc quân vương nên biết: quân đức (đức của vua), dân tâm (lòng dân), học pháp (phép học).
(1) Thất truyền: bị mất đi, không được truyền lại cho đời sau.
(2) Tam cương: ba mối quan hệ gốc trong xã hội phong kiến là quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ).
(3) Ngũ thường: năm đức tính của con người là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
(4) Cựu triều: triều vua cũ, ở đây chỉ nhà Lê.
(5) Chu Tử: Chu Hi (1130-1200), nhà nho nổi tiếng, đồng thời là nhà triết học, nhà giáo dục học thời Nam Tống.
(6) Tứ thư: bốn quyển sách tiêu biểu của Nho giáo: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung.
(7) Ngũ kinh: năm bộ sách kinh điển của Nho giáo: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.
(8) Chư sử: các cuốn sách sử có tiếng đời xưa (chư: từ chỉ số nhiều như trong chư vị, chư khách...)
Sắp xếp những phép học mà Nguyễn Thiếp nhắc đến trong bài tấu theo thứ tự cho đúng?
- Học phải áp dụng với thực tế, học đi đôi với hành.
- Học rộng rồi tóm lược những vấn đề cơ bản.
- Học tuần tự từ những điều đơn giản tới những điều phức tạp.
BÀN LUẬN VỀ PHÉP HỌC
(Luận học pháp)
"Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo". Đạo là lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền(1). Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương(2), ngũ thường(3). Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.
Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò thường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trận cựu triều(4), đều tùy đâu tiện đấy mà đi học.
Phép dạy, nhất định theo Chu Tử(5). Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên đến tứ thư(6), ngũ kinh(7), chư sử(8). Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.
Đạo học thành người thì tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị.
Đó là mấy điều, thành thật xin dâng. Chẳng quản lời nói vu vơ, cúi mong Hoàng thượng soi xét.
Kẻ hèn thần cung kính tấu trình.
(La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp(*),
Theo La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II)
Chú thích:
(*) Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng thường gọi là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp là người "thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu", từng đỗ đạt, làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học. Quang Trung mấy lần viết thư mời ông cộng tác với thái độ rất chân tình nên cuối cùng Nguyễn Thiếp ra giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị. Khi Quang Trung mất, ông lại về ở ẩn cho đến cuối đời mà không hợp tác với nhà Nguyễn.
Bàn luận về phép học là phần trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8-1791. Tấu là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên cho vua chúa để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị (khác với tấu trong nghệ thuật hiện đại là một loại hình kể chuyện, biểu diễn trước công chúng, thường mang yếu tố hài). Tấu có thể được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần, văn biền ngẫu. Bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung bàn về ba điều mà theo ông bậc quân vương nên biết: quân đức (đức của vua), dân tâm (lòng dân), học pháp (phép học).
(1) Thất truyền: bị mất đi, không được truyền lại cho đời sau.
(2) Tam cương: ba mối quan hệ gốc trong xã hội phong kiến là quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ).
(3) Ngũ thường: năm đức tính của con người là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
(4) Cựu triều: triều vua cũ, ở đây chỉ nhà Lê.
(5) Chu Tử: Chu Hi (1130-1200), nhà nho nổi tiếng, đồng thời là nhà triết học, nhà giáo dục học thời Nam Tống.
(6) Tứ thư: bốn quyển sách tiêu biểu của Nho giáo: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung.
(7) Ngũ kinh: năm bộ sách kinh điển của Nho giáo: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.
(8) Chư sử: các cuốn sách sử có tiếng đời xưa (chư: từ chỉ số nhiều như trong chư vị, chư khách...)
Nối cho đúng để được câu văn nêu rõ nhất tác dụng của phép học?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây