Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy Cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái then cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" viết về vùng biển nào?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác vào năm nào?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được in trong tập thơ nào?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Cảm hứng chủ đạo của tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá là gì?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Bài thơ được bố cục theo hành trình của một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Từ lúc con thuyền ra khơi, đánh cá và trở về.
Nhận xét trên đúng hay sai?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Xác định nội dung và bố cục của bài thơ bằng cách nối:
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Giọng điệu của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Nội dung chính của hai khổ thơ đầu là gì?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa"
Hai câu thơ sau sử dụng những phép tu từ nào?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
"Câu hát" vang lên trong bài thơ lúc ngư dân ra khơi và trở về có ý nghĩa gì?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Câu thơ nào cho thấy: việc đánh cá là công việc thường xuyên của những người dân chài?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Xác định không gian và thời gian nghệ thuật được miêu tả trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá:
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Trong hai khổ thơ đầu, cảnh con người cùng đoàn thuyền ra khơi trong không khí như thế nào?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"
Khổ thơ trên sử dụng biện pháp tu từ nào?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"
Nội dung của khổ thơ trên là gì?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
"Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng."
Trong khổ thơ trên, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
"Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng."
Phép nhân hóa trong đoạn thơ trên có tác dụng như thế nào?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Hai câu thơ "Cá nhụ cá chim cùng cá đé - Cá song lấp lánh đuốc đen hồng" sử dụng phép tu từ gì?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Chọn cách hiểu đúng về câu thơ "Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe"
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Tác dụng của phép so sánh trong câu thơ "Biển cho ta cá như lòng mẹ - Nuôi lớn đời ta tự buổi nào" là
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
"Bạc" và "vàng" trong câu "Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông" được hiểu là gì?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
"Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào."
Nội dung nào không được thể hiện trong khổ thơ trên?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
"Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng."
Nội dung không được nhắc đến trong khổ thơ trên là gì?
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Nối để thấy được hành trình của đoàn thuyền đánh cá:
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Gạch chân dưới loài cá không xuất hiện trong bài thơ:
Cá bạc, cá thu, cá chép, cá nhụ, cá chim, cá voi, cá đé, cá song.
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm nên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4 - 10 - 1958
(Huy Cận, Tuyển tập Huy Cận, tập I.
NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
(*) Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
(1) Ở vùng biển nước ta (trừ vùng tây nam đất nước), từ trên đất liền không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh mặt trời xuống biển trong câu thơ này chỉ có thể thấy được từ vị trí trên con thuyền ra khơi.
(2) Trong câu thơ này, tác giả dùng một hình ảnh liên tưởng để tả cảnh biển vào đêm: những lượn sóng dài chuyển động được hình dung như cái them cài ngang mà cánh cửa là màn đêm sập xuống.
(3) Cá bạc: ở đây là cá bạc má, loài cá biển cùng họ với cá thu, thân và má có vảy nhỏ, màu trắng nhạt.
(4) Cá thu: loài cá biển sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Từ hình dạng loài cá này mà tác giả liên tưởng, sáng tạo ra hình ảnh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi - Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng".
(5) Cá nhụ, cá chim, cá đé: chim, thu, nhụ, đé là những loài cá biển ngon nổi tiếng. Cá nhụ thân dài và hơi dẹt; cá chim mình dẹt, vây lớn; cá đé còn gọi là cá bẹ, cùng họ với cá trích nhưng lớn hơn.
(6) Cá song: cá biển sống ở gần bờ, thân dày và dài, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ ngoại hình cá song mà tác giả sáng tạo hình ảnh thơ "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".
Đâu không phải là đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây