Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Xác định bố cục và nội dung từng phần trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Cảnh ở lầu Ngưng Bích được tác giả miêu tả chủ yếu qua con mắt của ai?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Dòng nào dưới đây không phải là nội dung của sáu câu thơ đầu?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Trong sáu câu đầu, Nguyễn Du đã miêu tả không gian, thời gian nghệ thuật qua những hình ảnh nào?
- Khóa xuân
- Trước lầu Ngưng Bích
- Mây sớm đèn khuya
- Non xa trăng gần
- Bốn bề bát ngát
- Cát vàng cồn nọ
Không gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Xác định ý nghĩa của các từ miêu tả không gian, thời gian nghệ thuật trong 6 câu thơ đầu:
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Cụm từ "mây sớm đèn khuya" chủ yếu gợi tả điều gì?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Từ "bẽ bàng" trong câu thơ "Bẽ bàng mây sớm đèn khuya" hé mở tâm trạng gì của Kiều?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Sáu câu thơ đầu miêu tả những gì?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ."
Hai câu thơ trên nói lên nỗi nhớ của Kiều với ai?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ."
Trong hai câu thơ trên, Thúy Kiều nhớ về điều gì?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Từ "đồng" trong câu thơ "Tưởng người dưới nguyệt chén đồng" có nghĩa là gì?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Trong 8 câu thơ tiếp, vì sao tác giả lại để cho nhân vật nhớ tới người yêu trước?
Nguyễn Du để Thúy Kiều nhớ người yêu trước đã thể hiện sự am hiểu nhân vật của nhà thơ: Kiều bán mình, làm trọn chữ nhưng luôn mặc cảm vì đã chàng Kim, nên nàng luôn nhớ về Kim Trọng.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Cụm từ "tấm son" trong câu thơ "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai" sử dụng cách nói nào?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Cụm từ "tấm son" trong câu thơ "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai" chỉ ai?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Câu thơ "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai" được hiểu như thế nào?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Sau khi nhớ về Kim Trọng, tiếp đến Thúy Kiều nhớ và nghĩ về ai?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Cụm từ "quạt nồng ấp lạnh" được gọi là gì?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Các từ ngữ "sân Lai, gốc tử" được gọi là gì?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Các điển cố "Quạt nồng ấp lạnh", "sân Lai", "gốc tử" diễn tả điều gì?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Cụm từ "cách mấy nắng mưa" vừa thể hiện thời gian xa cách, vừa nói lên được sức mạnh tàn phá của tự nhiên đối với cảnh vật con người. Đúng hay sai?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Ý nào nêu không đúng phẩm chất của Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
8 câu thơ cuối có nội dung gì?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Gạch chân dưới những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong 8 câu thơ cuối:
Sử dụng ngôn ngữ độc thoại.
Tả cảnh ngụ tình.
Lặp cấu trúc.
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm.
Hoán dụ.
Đảo cấu trúc.
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Đoạn thơ có cấu trúc lặp lại, cấu trúc ấy được biểu hiện qua từ ngữ nào?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Tác dụng của việc nhắc lại 4 lần cụm từ "buồn trông" trong tám câu thơ cuối là gì?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Nghệ thuật chính được sử dụng trong tám câu thơ cuối là gì?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
- Gợi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.
- Gợi hành trình mờ mịt, trôi dạt, không xác định được điểm dừng.
- Hé mở cảnh ngộ éo le của Thúy Kiều: thân phận giam hãm, lo âu cho thân phận mình rồi sau không biết đi đâu về đâu.
Nội dung trên tương ứng với hình ảnh nào trong 8 câu thơ cuối?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
- Là thi liệu ước lệ trong thơ ca trung đại gắn liền với vẻ đẹp và số phận người phụ nữ.
- Thể hiện niềm trăn trở, nỗi day dứt cho số phận của một cô gái tài sắc lênh đênh trước cuộc đời.
Nội dung trên tương ứng với hình ảnh nào trong 8 câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
- Cảnh vật mờ mịt nhạt nhòa, không gian rộng lớn, vô tận.
- Nhân vật thấy mình nhỏ bé, trơ trọi, chán ngán cho tương lai mù mịt.
Nội dung trên tương ứng với nội dung nào trong 8 câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Hai câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nói lên tâm trạng gì của Kiều?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích thuộc phần nào của tác phẩm Truyện Kiều?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Nhận định nào nói đúng nhất nội dung đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích?
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân(1),
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung(2).
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng(3) dặm kia.
Bẽ bàng(4) mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(5),
Tin sương luống những rày trông mai chờ(6).
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son(7) gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa(8) cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(9) những ai đó giờ?
Sân Lai(10) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử(11) đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(12),
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
(1) Khóa xuân: khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa nhưng không được ra khỏi phòng ở); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
(2) Kiều ở trên lầu cao nhìn thấy dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như cùng trong một bức tranh.
(3) Bụi hồng: bụi có sắc đỏ, do gió bốc lên. (Trong văn học cổ, bụi hồng còn có nghĩa bóng là cõi trần).
(4) Bẽ bàng: xấu hổ, tủi thẹn.
(5) Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
(6) Ý nói Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình đi xa, tới nay hãy còn mong chờ tin tức nàng, thật là uổng công.
(7) Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thủy chung gắn bó.
(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.
(9) Quạt nồng ấp lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
(10) Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.
(11) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).
(12) Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Cụm từ "khóa xuân" trong câu "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân" được hiểu là gì?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây