ccho mình hỏi cách tạo sơ đồ tư duy như thế náo đc ko ạ?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
TK nhé
Giải pháp:
- + Tăng cường giám sát hoạt động khai thác rừng;
- + Trồng và phục hồi rừng;
- + Tuyên truyền bảo vệ rừng cho người dân bản địa.
- Thực trạng
- https://baotainguyenmoitruong.vn/rung-amazon-bi-tan-pha-hon-10-000-loai-dong-thuc-vat-co-nguy-co-tuyet-chung-327647.html
- Nguyên nhân
- https://vov.vn/the-gioi/nguyen-nhan-chay-rung-amazon-va-hau-qua-tham-khoc-948368.vov
Tại Thanh Hóa, đoàn đã đến khảo sát nghề chế biển thủy sản thuộc Phường Quảng Tiến, và làng nghề đồ lưu niệm từ sản phẩm biển thuộc Phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, Làng nghề mắm Nga Bạch – Xã Nga Bạch và làng nghề chiếu cói Nga Tiến – Xã Nga Tiến, huyện Nga Sơn.
Thanh Hóa có làng nghề ở phường Quảng Tiến, phường Trường Sơn, thành phố Sầm Sơn,...
1 vài làng nghề là làng nghề đan lát xã Hoằng Thịnh, huyện Hoằng Hóa; làng nghề chế biến hải sản phường Hải Thanh, thị xã Nghi Sơn…
Nhiều vụ xả thải chất độc hại từ các nhà máy ra môi trường làm ô nhiễm nguồn nước mãi nhiều năm về sau.
Hàng chục năm trước, ở Ringwood, bang New Jersey, Công ty Ford Motor Co. đã đổ hơn 35.000 tấn sơn độc hại xuống mảnh đất mà thị tộc Turtle, thuộc bộ tộc Ramapough Lenape sinh sống nhiều thế kỷ. Vụ xả thải này khiến nguồn nước ngầm bị nhiễm arsen, chì và nhiều hóa chất độc hại khác. Đến nay đã qua 43 năm, nhưng những hóa chất độc hại này vẫn ngấm xuống hệ thống nước ngầm cung cấp nước sinh hoạt ảnh hưởng tới hàng triệu người dân New Jersey.
Tại Picher, bang Oklahoma, hàng thập kỷ khai thác các mỏ kẽm và chì đã làm các tầng ngậm nước ô nhiễm chì và kim loại nặng. Hậu quả của nó thật thảm khốc, 60 năm sau, khi các mỏ này ngừng hoạt động, nhưng chất ô nhiễm từ mỏ chảy vào các sông suối, hồ nước vẫn đe dọa chất lượng nước uống của cộng đồng dân cư lân cận.
Ở Bắc Carolina, nguồn nước gần các nhà máy nhiệt điện than được phát hiện chứa hàm lượng cao crôm hóa trị 6 (một loại chất gây ung thư) và các hóa chất khác. Gần 1.000 hộ gia đình đã phải mua nước đóng chai để uống, nấu ăn và đánh răng. “Không có nước thì không thể sống được. Khi các công ty làm ô nhiễm nguồn nước, chẳng khác nào họ “kề dao vào cổ” bạn vậy. Chúng tôi phải làm gì đây, không thể sống như thế này được.”, Tracey Edwards, một cư dân ở Walut Cove, Bắc Carolina chia sẻ.
Theo Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA), hàng trăm công ty, nhà máy đã làm ô nhiễm nguồn nước uống trên khắp nước Mỹ hàng thập kỷ qua. Từ arsen cho tới chì, thủy ngân và crôm, đa phần đều do xả thải không đúng quy định. Chẳng hạn như, Công ty Anaconda Aluminum ở Montana làm nguồn nước địa phương bị ô nhiễm chì và crôm. Các cơ sở Gulf States Utilities ở bang Lousiana xả thải gây ô nhiễm vùng đầm lầy với benzene và các hóa chất khác. Doanh nghiệp Conklin Dumps ở New York gây rò rỉ hóa chất hữu cơ dễ bay hơi vào mạch nước ngầm.
EPA quản lý 94 hóa chất trong nguồn nước uống nhưng lại không đặt ra tiêu chuẩn đối với nhiều hóa chất khác có thể gây nguy hiểm. Phân tích trên trang News21 cho rằng, nguồn nước uống của 244 triệu người dân Mỹ chứa các chất gây ô nhiễm có thể gắn với các hoạt động sản xuất công nghiệp chưa được quản lý. Theo EPA, phải mất hàng năm trời, thậm chí hàng thập kỷ để làm sạch hóa chất khỏi nguồn nước ô nhiễm. “Tôi muốn gia đình tôi phải được hít thở bầu không khí trong lành và uống nước đủ sạch. Tôi muốn nhìn thấy thế hệ tương lai lớn lên khỏe mạnh chứ không muốn con mình mắc bệnh”, Vivian Milligan, một cư dân ở Ringwood, New Jersey nói.
Hoạt động khai thác mỏ làm ô nhiễm kim loại nặng mạch nước ngầm tại hầu hết các bang ở Mỹ. Ở Tar Creek - Đông Bắc Oklahoma, nơi những ngọn núi chất thải từ khai thác mỏ là một trong số những điểm ô nhiễm nhất nước Mỹ. Hàng thập kỷ khai thác kẽm và chì đã khiến cho khu vực rộng 64 km2 chất đầy những “núi” rác thải. Khi mỏ đóng cửa vào thập kỷ 1970, hậu quả ô nhiễm nghiêm trọng tới nỗi cư dân của 4 thị trấn đã phải tái định cư sang nơi khác. “Nước sinh hoạt ô nhiễm tới mức đỏ quạch màu sắt và các tạp chất khác. Chúng tôi phải uống nước có màu đỏ như thế ở Tar Creek”, ông John Frazier, một cựu cư dân Picher kể lại. Nước từ các tầng nước nông bắt đầu đỏ quạch do ô nhiễm, chảy vào sông suối, hồ nơi các nhà máy nước dùng để cung cấp nước sinh hoạt. Mạch nước ngầm Tar Creek chạy qua Picher, Cardin, Commerce rồi cả Miami trước khi chảy vào sông Neosho và hồ Grand Lake, những nơi cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho cả một khu vực rộng lớn.
Ô nhiễm ở Tar Creek khiến hàng loạt trẻ em bị phơi nhiễm chì với mức độ chì trong máu cao, EPA đã phải cố gắng làm sạch ô nhiễm ở Tar Creek suốt gần 1 thập kỷ. Tim Kent, Giám đốc Môi trường của bộ tộc Quapaw, cho biết EPA đã cố gắng giải quyết vấn đề ô nhiễm từ những năm 1980 nhưng thất bại. Ông cho biết nếu chỉ có một mình EPA làm sạch ô nhiễm trên toàn nước Mỹ, sẽ phải “mất tới 1.000 năm” bởi ô nhiễm mạch nước ngầm gây hậu quả rất nghiêm trọng và cực kỳ tốn kém.
Sau sự cố môi trường Love Canal 1978, chất thải độc hại sủi tăm trong nguồn nước tại khu dân cư ở bang New York, mối nguy về ô nhiễm công nghiệp trở thành mối quan tâm của toàn nước Mỹ. Năm 1980, Quốc hội Mỹ đã phải thông qua Đạo luật môi trường, thường được biết đến với tên gọi Superfund (siêu quỹ) để làm sạch ô nhiễm lan rộng. Siêu quỹ này giúp làm sạch ô nhiễm khi các công ty gây ô nhiễm không chịu nhận lỗi hoặc không có khả năng tài chính để làm sạch. “Love Canal, công ty hóa chất gây ô nhiễm nhất ở đó đã đổ chất thải vào các bãi rác xung quanh khu vực Buffalo”, Franklin Schwartz, nhà thủy văn tại Đại học bang Ohio cho biết: “Người ta bắt đầu nhìn thấy những chất ô nhiễm này xuất hiện khắp mọi nơi và nhận ra mức độ nguy hại”.
Phân tích danh sách Superfund xuất hiện hơn 1.700 địa điểm được đề xuất, gồm các nơi hiện nay và trước đây các hóa chất công nghiệp đã ngấm vào đất và mạch nước ngầm. EPA tiếp tục kiểm soát 90% những địa điểm này để đảm bảo sức khỏe cho người dân và môi trường.
Theo Tổ chức Bảo vệ môi trường EduGreen, nước ô nhiễm (arsen, chì, crôm, sản phẩm xăng dầu trong đó có benzene, thuốc trừ sâu,...) có thể gây tổn thương gan, thận, gây ra các căn bệnh như ung thư, tim mạch, ảnh hưởng tới hệ thần kinh, giảm khả năng sinh sản,... Sử dụng nguồn nước ô nhiễm có thể gây tiêu chảy, dị ứng da, các vấn đề về hô hấp,...
Sự phân hóa địa hình ở Bắc Mỹ (3 khu vực):
- Miền núi Coóc-đi-e ở phía tây: một trong những hệ thống núi lớn nhất thế giới, có độ cao trung bình 3000 - 4000 m, kéo dài 9000 km theo chiều bắc - nam, gồm nhiều dãy chạy song song, xen giữa là các cao nguyên và sơn nguyên.
- Miền đồng bằng ở giữa: gồm đồng bằng Ca-na-đa, đồng bằng Lớn, đồng bằng Trung Tâm và đồng bằng Duyên Hải, độ cao từ 200 - 500 m, thấp dần từ bắc xuống nam.
- Dãy núi A-pa-lat ở phía đông: hướng đông bắc - tây nam. Độ cao ở phần bắc từ 400 - 500 m, phần nam 1000 - 1500
Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/bai-14-dac-diem-tu-nhien-bac-my-sgk-dia-li-7-ket-noi-tri-thuc-voi-cuoc-song-a107535.html
1. Dựa vào lược đồ, ta có thể thấy được các luồng nhập cư đến châu Mỹ
2. Lịch sử nhập cư đã tạo nên thành phần chủng tộc đa dạng ở Bắc Mỹ. Trong quá trình chung sống, các chủng tộc hoà huyết khiến thành phần dân cư thêm da dạng.
TK:
Nguyên nhân suy giảm rừng Amazon:
- Khai thác gỗ: Việc khai thác gỗ lớn mạnh để đáp ứng nhu cầu về gỗ và sản phẩm gỗ gây mất rừng.
- Canh tác và chăn nuôi: Đất rừng thường bị chuyển đổi thành đất nông nghiệp và đất chăn nuôi để phục vụ cho việc canh tác cây trồng và chăn thả gia súc.
- Đánh bắt thủy sản: Đánh bắt thủy sản cũng gây ra sự thay đổi vùng đất rừng ven biển.
- Lấn chiếm đất đai: Sự mở rộng đô thị và xây dựng cơ sở hạ tầng cũng làm mất rừng.
- Cháy rừng: Cháy rừng do người hoặc thiên tai cũng là một vấn đề lớn gây mất rừng.
Biện pháp bảo vệ rừng Amazon:
- Quản lý bền vững: Thực hiện quản lý rừng bền vững để đảm bảo khai thác gỗ và sử dụng đất rừng được thực hiện theo cách bảo vệ môi trường.
- Bảo tồn đặc khu: Xác định và bảo tồn các đặc khu rừng quan trọng về môi trường và đa dạng sinh học.
- Hỗ trợ kinh tế thay thế: Xây dựng các nguồn thu nhập thay thế cho cộng đồng dựa vào sử dụng bền vững của rừng.
- Quản lý cháy rừng: Cải thiện quản lý cháy rừng để ngăn ngừa cháy rừng không kiểm soát.
Nhận xét sự thay đổi diện tích rừng Amazon ở Brazil giai đoạn 1970-2019:
- Trong giai đoạn 1970-1990, diện tích rừng Amazon giảm mạnh do khai thác gỗ, canh tác, và đánh bắt thủy sản không bền vững.
- Từ những năm 1990 đến cuối thập kỷ 2000, Brazil đã thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ rừng và kiểm soát việc khai thác, dẫn đến mức giảm chậm hơn.
- Tuy nhiên, sau đó, sự giảm diện tích rừng tăng trở lại do sự gia tăng của canh tác cây trồng và đánh bắt thủy sản.
- Cuối cùng, năm 2019, có sự gia tăng lớn trong việc chặt phá rừng, gây mất rừng nghiêm trọng.
-> Nhìn chung, diện tích rừng Amazon ở Brazil đã giảm đáng kể trong giai đoạn này, và sự thay đổi này đòi hỏi sự quản lý và bảo vệ môi trường bền vững để ngăn chặn suy giảm tiếp tục của rừng Amazon quý báu.
- Trong nhiều năm qua, con người đã khai phá rừng A-ma-dôn để lấy gỗ, lấy đất canh tác, kha thác khoáng sản và làm đường giao thông khiến diện tích rừng A-ma-dôn bị suy giảm. Bên cạnh đó, các vụ cháy rừng cũng làm giảm diện tích rừng đáng kể.
- Bảo vệ rừng A-ma-dôn là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng trong bối cảnh diện tích rừng bị suy giảm nhanh chóng. Các quốc gia trong khu vực rừng A-ma-dôn đã có nhiều biện pháp bảo vệ rừng như:
+ Tăng cường giám sát hoạt động khai thác rừng.
+ Trồng phục hồi rừng.
+ Tuyên truyền và đẩy mạnh vai trò của người dân bản địa trong việc bảo vệ rừng.
Việc khai thác rừng Amazon có ảnh hưởng đáng kể đến cả môi trường tự nhiên và đời sống con người trong khu vực này. Dưới đây là một số ảnh hưởng chính:
1. Mất môi trường sống: Rừng Amazon là một trong những khu rừng giàu đa dạng sinh học nhất trên thế giới, cung cấp môi trường sống cho hàng triệu loài động vật và thực vật. Việc khai thác rừng gây mất môi trường sống cho các loài sinh vật, dẫn đến suy giảm đáng kể về đa dạng sinh học.
2. Biến đổi khí hậu: Rừng Amazon đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ khí CO2 từ không khí, giúp giảm lượng khí nhà kính. Việc khai thác rừng dẫn đến giảm diện tích rừng, làm tăng lượng khí CO2 trong không khí và góp phần vào biến đổi khí hậu toàn cầu.
3. Ảnh hưởng đến cộng đồng địa phương: Việc khai thác rừng thường gây ra mất môi trường sống và nguồn sống của cộng đồng địa phương, đồng thời tạo ra những vấn đề về sức khỏe do ô nhiễm môi trường.
4. Mất đi nguồn tài nguyên: Rừng Amazon cung cấp nguồn tài nguyên quý giá như gỗ, thảo dược, vàng, khoáng sản... Việc khai thác không bền vững có thể dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên và gây ra hậu quả nghiêm trọng cho khu vực này. Do đó, việc khai thác rừng Amazon cần được quản lý một cách bền vững và cân nhắc để bảo vệ môi trường tự nhiên và đời sống của cả con người và sinh vật trong khu vực này.
Không có cách nào
Mình đùa đấy