K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

11 tháng 11

nam có 25 viên bi, bạn đăng nhiều hơn bạn nam 5 viên bi, nhưng ít hơn bạn hoà 5 viên. hỏi trung bình mỗi bạn có bao nhiêu viên

Đề thi đánh giá năng lực

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5.      Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,      Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan,          Nước khe cơm vắt gian nan, Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.      Buổi chiến trận mạng người như rác,      Phận đã đành đạn lạc tên rơi,          Lập lòe ngọn lửa ma trơi, Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!      Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp,      Liều...
Đọc tiếp

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5.

     Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,

     Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan,

         Nước khe cơm vắt gian nan,

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.

     Buổi chiến trận mạng người như rác,

     Phận đã đành đạn lạc tên rơi,

         Lập lòe ngọn lửa ma trơi,

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

     Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp,

     Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,

         Ngẩn ngơ khi trở về già,

Ai chồng con tá biết là cậy ai?

     Sống đã chịu một đời phiền não,

     Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,

         Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

     Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,

     Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,

     Thương thay cũng một kiếp người,

Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.

                                  (Nguyễn Du, Văn tế thập loại chúng sinh(1))

Chú thích: 

Văn tế thập loại chúng sinh còn được gọi là Văn chiêu hồn, là một sáng tác xuất sắc bằng chữ Nôm của đại thi hào Nguyễn Du, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên Đông Dương tuần báo năm 1939 thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Tuy nhiên, GS. Hoàng Xuân Hãn lại cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802 - 1812).

Câu 1. Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích trên. 

Câu 2. Liệt kê những kiếp người xuất hiện trong đoạn trích.

Câu 3. Trình bày hiệu quả của việc sử dụng từ láy trong hai dòng thơ dưới đây:

Lập lòe ngọn lửa ma trơi

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

Câu 4. Phát biểu chủ đề và cảm hứng chủ đạo của đoạn trích.

Câu 5. Từ cảm hứng chủ đạo của đoạn trích, anh/chị hãy bày tỏ suy nghĩ về truyền thống nhân đạo của dân tộc ta (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).

1
12 tháng 11

Tiếp

BÀI 3

 

Câu 1 (2 điểm): Phân tích, đánh giá tính thuyết phục của văn bản "Cái đẹp trong truyện ngắn Muối của rừng" của Nguyễn Huy Thiệp.

Văn bản "Cái đẹp trong truyện ngắn Muối của rừng" của Nguyễn Huy Thiệp thuyết phục người đọc nhờ sự kết hợp khéo léo giữa miêu tả thiên nhiên tươi đẹp và sự thức tỉnh của nhân vật trước hành động tàn bạo với thiên nhiên. Truyện mở đầu với những mô tả đẹp đẽ, tinh tế về thiên nhiên: “cây cối nhú lộc non”, “rừng xanh ngắt và ẩm ướt” khiến người đọc cảm nhận được vẻ đẹp trong trẻo, mát mẻ của thiên nhiên. Tuy nhiên, sự tương phản giữa vẻ đẹp ấy và hành động đi săn của nhân vật chính – ông Diều – lại tạo ra một mâu thuẫn gay gắt. Khi thiên nhiên đang căng tràn sức sống, ông Diều lại lựa chọn săn bắn, một hành động tàn phá môi trường sống, khiến ông phải đối diện với cảm giác tội lỗi và hối hận.

Điểm thuyết phục trong văn bản là cách nhà văn đã để nhân vật tự nhận thức vẻ đẹp giản dị của thiên nhiên thông qua dòng tâm trạng của ông Diều. Nhờ những chi tiết đầy cảm xúc, như tiếng gọi của khỉ đực và khỉ con, hay sự ám ảnh của rừng sâu, Nguyễn Huy Thiệp đã xây dựng một thông điệp mạnh mẽ về việc con người cần phải bảo vệ thiên nhiên, chứ không phải chỉ coi đó là một công cụ để thỏa mãn thú vui cá nhân. Cách tiếp cận này không chỉ thể hiện tài năng của nhà văn mà còn tạo ra sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc, khiến họ phải suy nghĩ lại về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên.

Câu 2 (4 điểm): Nghị luận về vấn đề thu gom rác thải của giới trẻ hiện nay

Trong những năm gần đây, trên mạng xã hội, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những clip ghi lại quá trình thu gom rác thải tại các ao hồ, bãi biển hay chân cầu của các bạn trẻ trên khắp cả nước. Đây là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng, không chỉ về mặt môi trường mà còn thể hiện trách nhiệm và tinh thần cống hiến của thế hệ trẻ đối với cộng đồng và thiên nhiên.

Trước hết, việc thu gom rác thải tại các khu vực công cộng, đặc biệt là các ao hồ, bãi biển, là hành động thiết thực giúp bảo vệ môi trường. Các khu vực này thường xuyên bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là do rác thải nhựa. Việc dọn dẹp, thu gom rác giúp làm sạch không gian sống, bảo vệ hệ sinh thái, động vật hoang dã và làm cho những địa điểm này trở nên trong lành hơn. Hơn nữa, việc các bạn trẻ tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường còn tạo ra một ý thức cộng đồng mạnh mẽ, lan tỏa thông điệp về việc giảm thiểu rác thải, bảo vệ hành tinh.

Thứ hai, hành động thu gom rác không chỉ giúp môi trường mà còn giáo dục mọi người về trách nhiệm bảo vệ trái đất. Những clip được đăng tải trên mạng xã hội không chỉ ghi lại những khoảnh khắc của việc làm sạch mà còn truyền cảm hứng cho nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, về sự quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường. Những hình ảnh các bạn trẻ lao động miệt mài, cặm cụi thu gom từng túi rác, chiếc chai nhựa hay mảnh vỡ, khiến nhiều người phải suy nghĩ về hành động của chính mình. Họ cũng hiểu rằng, nếu mỗi cá nhân đều có trách nhiệm, cộng đồng sẽ thay đổi được diện mạo của môi trường.

Tuy nhiên, bên cạnh những hành động đáng khen ngợi này, vẫn còn một số vấn đề cần được khắc phục. Đầu tiên, sự tham gia của giới trẻ trong các chiến dịch bảo vệ môi trường vẫn còn hạn chế, chưa đủ mạnh mẽ để tạo ra sự thay đổi rõ rệt. Mặc dù các clip thu gom rác được chia sẻ rộng rãi, nhưng phần lớn chỉ dừng lại ở việc cổ vũ tinh thần mà thiếu đi những giải pháp thiết thực để giảm thiểu ô nhiễm, chẳng hạn như việc hạn chế sử dụng sản phẩm nhựa, tăng cường tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng. Thêm vào đó, một số nơi tổ chức thu gom rác vẫn còn thiếu sự chuẩn bị chu đáo, thiếu sự phối hợp với các cơ quan chức năng, khiến hiệu quả công việc không được như mong muốn.

Từ góc nhìn của người trẻ, tôi tin rằng hành động thu gom rác thải, dù chỉ là một việc làm nhỏ, nhưng lại có tác dụng lớn trong việc nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, lan tỏa những giá trị nhân văn. Chúng ta không chỉ cần dọn dẹp rác thải, mà còn phải giáo dục mỗi người về trách nhiệm của mình đối với hành tinh, bảo vệ môi trường sống không chỉ cho hôm nay mà còn cho các thế hệ tương lai. Vì thế, bên cạnh những hành động cụ thể, chúng ta cần có những biện pháp giáo dục dài hạn, xây dựng ý thức bảo vệ môi trường từ khi còn nhỏ, đồng thời khuyến khích các bạn trẻ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động bảo vệ trái đất.

Trong bối cảnh môi trường đang ngày càng bị đe dọa bởi con người, mỗi hành động dù nhỏ của giới trẻ đều có thể tạo ra những tác động tích cực. Cần tiếp tục phát huy những hoạt động như vậy và biến chúng thành phong trào rộng lớn, mạnh mẽ, lan tỏa tới mọi tầng lớp xã hội, góp phần bảo vệ một tương lai xanh sạch đẹp cho thế hệ mai sau.

phải ko cô    

 

 
4
456
CTVHS
11 tháng 11

@

Nguyễn Thị Trúc Nhi copy thì ghi hai từ "Tham khảo" in đậm ẠAA

 

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5.  CÁI ĐẸP TRONG TRUYỆN NGẮN MUỐI CỦA RỪNG CỦA NGUYỄN HUY THIỆP        […] Trước hết là sự thức tỉnh của nhân vật trước vẻ đẹp bình dị của thiên nhiên.        Truyện mở đầu bằng khung cảnh thiên nhiên “vừa trang trọng, vừa tình cảm”: “Cây cối nhú lộc non.”, “Rừng xanh ngắt và ẩm ướt.”. Và cái nhã thú của người kể chuyện “được đi trong rừng,...
Đọc tiếp

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. 

CÁI ĐẸP TRONG TRUYỆN NGẮN MUỐI CỦA RỪNG CỦA NGUYỄN HUY THIỆP

       […] Trước hết là sự thức tỉnh của nhân vật trước vẻ đẹp bình dị của thiên nhiên.

       Truyện mở đầu bằng khung cảnh thiên nhiên “vừa trang trọng, vừa tình cảm”: “Cây cối nhú lộc non.”, “Rừng xanh ngắt và ẩm ướt.”. Và cái nhã thú của người kể chuyện “được đi trong rừng, chân dẫm lên lớp lá ải mục, hít thở không khí trong lọc, thỉnh thoảng lại được thót mình bởi một giọt nước trên cây rỏ xuống vai trần”. Chỉ cần ba câu văn ngắn gọn, người kể chuyện đã gợi cho người đọc một không gian rất gần gũi, thân thuộc với con người. Thế nhưng không gian ấy dường như đối lập với suy nghĩ của ông Diểu, nhân vật chính trong truyện.

       Đọc truyện, người đọc không khỏi ám ảnh cảnh đi săn của ông Diểu. Khi thiên nhiên căng tràn sức sống, xanh tươi, mưa xuân ấm áp, rừng ẩm ướt cũng là thời điểm ông Diểu chọn đi săn và xem đó là cái thú đáng sống. […] Xưa nay, con người luôn có khát vọng chinh phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho con người, khẳng định sức mạnh và lòng quả cảm của con người. Thế nhưng tàn sát, hủy hoại thiên nhiên ấy lại là tội lỗi. Tiếng gọi buồn thảm, đau đớn của khỉ đực, tiếng rú thê thảm của khỉ con dưới vực sâu xoáy vào lòng người đọc tiếng gọi của rừng sâu, ám ảnh người đi săn. Điều đáng quý, nhà văn đã để cho nhân vật tự nhận thức vẻ đẹp bình dị của thiên nhiên qua dòng tâm trạng của nhân vật. […] Sự đa dạng của các loài muông thú: chim xanh, gà rừng, khỉ, sự hùng vĩ của núi non, hang động, sự tĩnh lặng của rừng xanh, sự quấn quít của ba con khỉ đối lập với tiếng súng săn dữ dội, tiếng kêu buồn thảm của khỉ đực, tiếng rú kinh hoàng của khỉ con đã đánh thức ông: “Ông Diểu sợ hãi run lên.”, “Chân tay ông rủn ra, giống cảm giác như người vừa mới làm xong việc nặng.”. Nhận ra thiên nhiên giản dị và đẹp cũng là lúc ông ý thức được hành động vừa làm điều ác của chính mình. Rõ ràng cái đẹp của thiên nhiên không chỉ đánh thức mĩ quan mà còn khơi dậy nhận thức, suy nghĩ tích cực của ông Diểu về vẻ đẹp của chính nó.

       Vẻ đẹp của sự hướng thiện

       Đi săn vào một ngày xuân đối với ông Diểu là điều đáng sống, là cơ hội để ông Diểu “khoe” cái sự dẻo dai, nhanh nhẹn và lòng dũng cảm của mình ở tuổi sáu mươi. Thế nhưng khi hạ gục được con mồi, ông Diểu lại hoảng sợ nghĩ mình đang làm điều ác. Chứng kiến sự hoảng loạn của đàn khỉ, khỉ cái liều mạng quay lại cứu khỉ đực ông Diểu day dứt: “Ông sẽ chết trước hai năm nếu bắn khỉ cái.”. Ông Diểu đã tha cho khỉ cái vì sự cuồng nhiệt hi sinh, bởi lòng cao thượng của nó. Gặp lại con khỉ đực ông vừa mới bắn đang nằm trên ngọn đá phẳng lì và khá chông chênh, nhìn khỉ đực bị thương giương ánh mắt cầu khẩn về phía mình, ông Diểu thương hại vơ nắm cỏ Lào vò nát, nhai kĩ đắp vết thương, cởi quần lót bó vết thương cho khỉ đực. Ông Diểu vừa bế khỉ đực vừa tìm đường xuống núi với ý nghĩ sẽ bắt con khỉ đực về, mặc cho ông phải bỏ lại quần áo. Nhưng khi thấy khỉ cái lẽo đẽo đằng sau, lầm lũi xuyên rừng, ông Diểu thấy lòng buồn tê tái, sống mũi cay cay. Ông đã quyết định phóng sinh khỉ đực, rẽ sang lối đi khác. Điều gì đã khiến nhân vật hướng thiện nếu không phải là tình yêu? Cái đẹp của thiên nhiên có khả năng gợi cho nhân vật thấy được bản chất của chính mình nơi thiên nhiên, gợi cho nhân vật những rung cảm trước tạo vật và ý thức trách nhiệm của mình trước thiên nhiên. Hành động tha cho khỉ cái, phóng sinh khỉ đực của ông Diểu là minh chứng cho sự hướng thiện, tình yêu đối với thiên nhiên và tình yêu cuộc sống của nhân vật.

       Cái đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người

       Truyện kết thúc bằng hình ảnh ông Diểu trở về nhà qua lối đi khác: “Lối đi đầy bụi gai, nhưng loài hoa tử huyền nhiều không kể xiết.”, “Hoa tử huyền màu trắng, vị mặn, nhỏ như đầu tăm ba chục năm kết muối một lần, điềm báo may mắn, đất nước thanh bình.”. Lối đi khác mang ý nghĩa biểu tượng cho sự thay đổi nhận thức và hành động của nhân vật. Loài hoa tử huyền mang ý nghĩa biểu tượng cho những điều tốt đẹp. Một người như ông Diểu khao khát chinh phục tự nhiên, ý thức được vẻ đẹp của thiên nhiên, có tấm lòng hướng thiện sẽ đón nhận những điều tốt lành trong cuộc đời.

       Khép lại trang truyện “Muối của rừng” (Nguyễn Huy Thiệp) người đọc không còn ám ảnh bởi cảnh đi săn của ông Diểu mà chỉ thấy quá trình thay đổi nhận thức và vẻ đẹp trong tâm hồn của của nhân vật yêu thiên nhiên, hướng thiện, có niềm tin vào những điều tốt đẹp. Vẻ đẹp trong tâm hồn ông Diểu xét cho cùng cũng là vẻ đẹp trong tâm hồn người kể chuyện. Đó cũng là ý nghĩa vẻ đẹp trong truyện ngắn “Muối của rừng”.

(Chu Thị Hảo, đăng trên taodan.com.vn, bài đăng ngày 18/9/2024)

Câu 1. Xác định luận đề của văn bản trên.

Câu 2. Dẫn ra một câu văn thể hiện rõ tính khẳng định trong văn bản.

Câu 3. Nhận xét về mối quan hệ giữa nội dung và nhan đề của văn bản.

Câu 4. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong câu văn sau: Sự đa dạng của các loài muông thú: chim xanh, gà rừng, khỉ, sự hùng vĩ của núi non, hang động, sự tĩnh lặng của rừng xanh, sự quấn quít của ba con khỉ đối lập với tiếng súng săn dữ dội, tiếng kêu buồn thảm của khỉ đực, tiếng rú kinh hoàng của khỉ con đã đánh thức ông.

Câu 5. Phân tích, đánh giá mục đích, quan điểm và tình cảm của người viết qua văn bản.

0
II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM) Câu 1. Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích vẻ đẹp của con sông Đà trong đoạn trích sau:     Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM)

Câu 1. Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích vẻ đẹp của con sông Đà trong đoạn trích sau:

    Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.

(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân toàn tập, tập IV, NXB Văn học, Hà Nội, 2000)

Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về vấn đề ý thức tự học ở giới trẻ.

0
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM) Đọc đoạn trích sau: ... Kim đồng hồ tích tắc, tích tắc Hai tiếng động nhỏ bé kia Hơn mọi ầm ào gào thét Là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người Đó là thời gian Nó báo hiệu mỗi giây phút qua đi không trở lại Nhắc nhở cái gì đang đợi ta ở cuối Nhưng anh, anh chẳng sợ nó đâu Thời gian – đó là chiều dài những ngày ta sống bên nhau Thời gian – đó là chiều...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)

Đọc đoạn trích sau:

... Kim đồng hồ tích tắc, tích tắc

Hai tiếng động nhỏ bé kia

Hơn mọi ầm ào gào thét

Là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người

Đó là thời gian

Nó báo hiệu mỗi giây phút qua đi không trở lại

Nhắc nhở cái gì đang đợi ta ở cuối

Nhưng anh, anh chẳng sợ nó đâu

Thời gian – đó là chiều dài những ngày ta sống bên nhau

Thời gian – đó là chiều dày những trang ta viết.

(Trích Cho Quỳnh những ngày đi xa, Di cảo Lưu Quang Vũ, NXB Trẻ, 2028, tr.29 – 30)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Vì sao tiếng Kim đồng hồ tích tắc lại trở thành tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người?

Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong trường hợp sau:

Hai tiếng động nhỏ bé kia

Hơn mọi ầm ào gào thét

Câu 4. Lưu Quang Vũ có cách cảm nhận thời gian như thế nào trong hai câu thơ cuối?

Câu 5. Theo anh/chị, hai cách cảm nhận về thời gian trong đoạn trích sẽ chi phối như thế nào tới đời sống con người?

0
II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM) Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu tác hại của việc lạm dụng trí tuệ nhân tạo (AI). Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn trích sau: Đoạn trích 1: NHÀ MẸ LÊ Thạch Lam      Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM)

Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu tác hại của việc lạm dụng trí tuệ nhân tạo (AI).

Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn trích sau:

Đoạn trích 1:

NHÀ MẸ LÊ

Thạch Lam

     Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa nhớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay.

     Mẹ con bác ta ở một căn nhà cuối phố, cái nhà cũng lụp xụp như những căn nhà khác. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gẫy nát. Mùa rét thì giải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với những người nghèo như bác, một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi chừng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói. Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm ấp lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó.

(Trích Nhà mẹ Lê, Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2015, trang 28 - 29)

Đoạn trích 2:

LÀM MẸ

Nguyễn Ngọc Tư

   (Lược phần đầu: Dì Diệu và chú Đức lấy nhau đã nhiều năm nhưng không có con vì năm cưới chú, việc cắt khối u buồng trứng đã khiến dì không thể tự sinh con. Bởi niềm khao khát về đứa con chưa lúc nào nguôi nên dì bàn với chú Đức tìm người mang thai hộ. Chị Lành gánh nước thuê vì hoàn cảnh gia đình ngặt nghèo nên nhận lời giúp chú dì. Em bé trong bụng chị Lành ngày một lớn đem đến niềm vui vô bờ cho chú dì, và cũng dấy lên tình mẫu tử ở chị Lành.)

   Và khi tháng Ba đi qua, đứa bé bắt đầu báo hiệu sự sống. Chị Lành khoe:

   – Nó đạp rồi, chị Diệu, nó đạp đây nè.

   Dì Diệu hớn hở vén bụng chị Lành lên, dưới làn da căng mẫn, đứa bé con chòi đạp rối rít. Chị Lành cười giòn:

   – Nó mạnh quá chị ha....

   Dì Diệu cười, rồi làm như một cơn gió từ đâu xộc tới, tim dì riết lại một nỗi đau. Dì thèm biết bao nhiêu cái cảm giác che chở cho một sinh linh sống trong mình, để được thèm tới cùng, tới chảy nước dãi món ngọt, món chua, để có thể cảm nhận từ trái tim chứ không phải bằng bàn tay đôi bàn chân bé bỏng quẩy đạp bụng mình thon thót. Đó là những thứ cảm giác thiêng liêng không vay mượn, thuê mướn được: cảm giác làm mẹ. Dì bắt đầu lo lắng, mình đã làm một việc đúng không.

   Chỉ còn một tháng hai mươi ngày nữa, đứa bé sẽ ra đời. Dì Diệu tính từng ngày, từng bữa. Chị Lành tính từng ngày từng bữa. Người trông cho mau, người trông đừng bao giờ đến. Dì Diệu cố quên cái vẻ mặt buồn bã, van nài của chị Lành. Chị biết, khi đứa bé khóc ngoe ngoe cất tiếng khóc chào đời, là chị với nó sẽ phải chia lìa. Hợp đồng đã ghi rõ ràng như vậy. Chị thấy thương mình, thương con và thương dì Diệu. Chị rối rít ăn, rối rít ngủ vì biết rằng mai nầy rồi chẳng còn nhau...

(Nguyễn Ngọc Tư, Làm mẹ, Tập truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ, 5/2024)

0