Giúp e làm phân tích bài thơ Giục Giã của Xuân Diệu
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo:
"Truyện kí" là một thể loại văn học phổ biến trong văn học Việt Nam, thường mô tả các câu chuyện, sự kiện, hoặc trải nghiệm cá nhân của tác giả qua các bài viết nhật ký. Có một số yếu tố chính định hình nên truyện kí:
-
Tính cách thuần túy: Truyện kí thường mang tính cách cá nhân, chân thật và không chấm dứt. Điều này tạo ra sự gần gũi và thấu hiểu giữa tác giả và người đọc.
-
Mô tả chi tiết và sống động: Tác giả thường mô tả chi tiết về các sự kiện, cảm xúc, và nhận định cá nhân. Nhờ vào điều này, người đọc có thể cảm nhận được môi trường, tình huống và cảm xúc một cách chân thực.
-
Tập trung vào cá nhân và xã hội: Truyện kí thường tập trung vào cuộc sống cá nhân của tác giả, nhưng cũng có thể đề cập đến các vấn đề xã hội, chính trị, và văn hóa đương thời.
-
Phản ánh tri thức và quan điểm cá nhân: Tác giả thường sử dụng truyện kí để phản ánh những suy tư, quan điểm, và kiến thức cá nhân, đồng thời chia sẻ cảm nhận và những bài học từ cuộc sống.
-
Có tính chất tự sự và không chính thống: Truyện kí thường không tuân theo một cấu trúc cố định và không cố ý đưa ra phê phán hoặc nhận định chính thống. Thay vào đó, nó thể hiện suy tư và trải nghiệm cá nhân của tác giả.
“Vũ Như Tô” là vở kịch lịch sử có quy mô hoành tráng xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng và của nền kịch nói Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1941, dựa trên một sự kiện lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu Lê. Tác phẩm gồm 5 hồi. Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là hồi 5, hồi cuối của vở kịch. Trong đoạn trích được học, gây ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc là nhân vật Vũ Như Tô cùng bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài.
Hành động, sự kiện chính của hồi này có thể tóm tắt như sau: Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn giữa nhân dân, thợ xây đài với Vũ Như Tô và bạo chúa Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản cầm đầu một phe cánh đối nghịch trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản. Biết tin có binh biến, bạo loạn trong phủ chúa, nguy hiểm đến tính mạng Vũ Như Tô, Đan Thiềm hết lời khuyên và giục chàng đi trốn. Nhưng Vũ khăng khăng không nghe vì tự tin mình “quang minh chính đại”, “không làm gì nên tội” và hi vọng ở chủ tướng An Hòa Hầu. Tình hình càng lúc càng nguy kịch. Lê Tương Dực bị giết; đại thần, hoàng hậu, cung nữ của y cũng vạ lây; Đan Thiềm bị bắt, .… Kinh thành điên đảo. Khi quân khởi loạn đốt Cửu trùng đài thành tro, Vũ Như Tô mới tỉnh ngộ. Chàng trơ trọi, đau đớn vĩnh việt cửu trùng đài rồi bình thản ra pháp trường. Theo từ điển văn học, bi kịch là mâu thuẫn giữa khát vọng, hoài bão, lí tưởng của cá nhân với thực tại. Thực tại chưa đủ điều kiện cho cá nhân thực hiện khát vọng, lý tưởng của mình nên rơi vào thất bại, thậm chí dẫn đến cái chết thảm thương. Hiểu theo nghĩa thông thường là nỗi đau khổ vò xé dai dẳng không có cách nào giải thoát. Trong Vĩnh biệt cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô là người nghệ sĩ thiên tài có lý tưởng cao đẹp nhưng lâm vào cảnh ngộ không giải quyết được một cách đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì nghĩa là không giải quyết được mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và đời sống cuối cùng rơi vào bi kịch đau đớn. Vũ Như Tô là một nhân vật có thật đã từng được Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép rất tỉ mỉ: “Trước đây, Vũ Như Tô một người thợ ở Cẩm Giàng, xếp những thanh nứa làm thành kiểu mẫu cung điện lớn trăm nóc, dâng lên nhà vua; nhà vua bằng lòng phong cho Như Tô làm đô đốc đứng trông nom việc dựng hơn trăm nóc cung điện lớn có gác, lại khởi công làm Cửu trùng đài. “(Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên, quyển 26). Tuy nhiên Cửu Trùng Đài đã làm “Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười.”(Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, Quyển XV, Kỷ Nhà Lê, Tương Dực Đế). Sau đó, Trịnh Duy Sản phản nghịch, dẫy binh, Vũ Như Tô bị thợ thuyền giết chết, xác quăng ngoài chợ, bị mọi người khinh khi nhổ nước bọt. Tuy nhiên, bi kịch đó của họ Vũ là sự oan khuất bởi ông chỉ là người thừa lệnh của vua làm Cửu Trùng Đài vì thế nhân dân lầm tưởng ông chỉ biết phụng sự cho hôn quân bạo chúa. Năm 1941, Nguyễn Huy Tưởng đã minh oan cho họ Vũ bằng vở kịch năm hồi này.
Trong vở kịch Vũ Như Tô hiện lên là một kiến trúc sư thiên tài, là hiện thân của niềm khao khát say mê sáng tạo cái đẹp, “là người ngàn năm dễ có một….có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ…chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện trên mảnh lụa thần tình biến hóa như cảnh hóa công”. Qua vài lời của tác giả ta thấy Vũ Như Tô là một nghệ sĩ lớn mang trong mình nhân cách cao đẹp, một nghệ sĩ có hoài bão lớn lao, có lý tưởng nghệ thuật cao cả. Khát vọng nghệ thuật của ông lớn lao hơn bao giờ hết, ông muốn xây dựng một toà lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao” để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện” . Đó là một công trình kiến trúc vĩ đại, tuyệt mĩ, tô điểm cho non sông đất nước: “để ta xây một Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở, vài năm nữa Cửu Trùng Đài hoàn thành, cao cả huy hoàng, giữa cõi trần lao lực có một cảnh Bồng Lai…. Đời ta không quý bằng Cửu Trùng Đài”. Tâm Hồn của Vũ dành hết cho Cửu trùng đài.
Cửu Trùng Đài – như cái tên của nó – là một công trình kiến trúc mà tầm vóc không thể chỉ tính đếm bằng lượng gỗ cây, đá khối, cho dù đó là những con số nghe qua cũng đã đủ kinh hoàng (“hai trăm vạn cây gỗ chất đống cao như núi, toàn những gỗ quý vô ngần”,“hai mươi vạn phiến đá lớn, bốn mươi vạn phiến đá nhỏ, từ Chân Lạp tải ra”). Tầm vóc của nó, phải hình dung bằng chính tầm vóc ý tưởng, khát vọng đầy ngạo nghễ của người sẽ tạo ra nó: một công trình độc nhất vô nhị, vượt xa tất cả những kỳ quan ở Trung Quốc, Ấn Độ, Chiêm Thành,… và những công trình mà người đời từng biết đến, từng truyền tụng. Lại là một kỳ quan bền vững, bất diệt. Xây công trình, họ Vũ không thèm “tranh tinh xảo” với người, chỉ “tranh tinh xảo với Hóa công”! Đó là hiện thân của cái Đẹp, không phải cái Đẹp nói chung mà là cái Đẹp “siêu đẳng”.
Tuy nhiên, Đài Cửu Trùng lại là hiện thân cho cái Đẹp xa hoa. Xây nên kỳ quan ấy, tất nhiên cực kỳ tốn kém, một sự tốn kém không chỉ tính bằng tiền của ngân khố quốc gia, mà còn phải tính bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu nữa. Mà Đài chỉ xây cho kẻ ăn chơi sa đọa là vua dâm Lê Tương Dực. Còn nhớ đời Tây Chu bên Trung Hoa, U vương vì Bao Tự mà bắt dân xây Giao Đài để ăn chơi hưởng lạc, khiến cho lòng dân trong nước oán hận rồi cuối cùng đời Tây Chu cũng diệt vong. Cái mầm mống bi kịch của Vũ Như Tô ở đây là ước mơ khát vọng to lớn như vậy nhưng bản thân thì không thực hiện được vì không có tài chính. Còn phụng sự cho hôn quân bạo chúa Lê Tương Dực thì ông không bao giờ hợp tác. Nhưng rồi, Đan Thiềm xuất hiện: Sắc đẹp, lời ngon tiếng ngọt và sự tôn kính của Đan Thiềm đã làm cho Vũ xiêu lòng và bằng lòng xây Cửu Đài. Cái oái oăm là ở đó, và mầm mống bi kịch của Vũ Như Tô cũng là ở đó.
Theo đó, ý nghĩa biểu tượng thâm trầm của Cửu Trùng Đài được xác lập trên nhiều mối quan hệ. Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài hiện thân cho “mộng lớn”. Với Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài hiện thân cho niềm kiêu hãnh nước nhà. Với Lê Tương Dực, Cửu Trùng Đài là quyền lực và ăn chơi. Với dân chúng, Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu,… từ đó bi kịch đã đến với Vũ Như Tô.
Vì quá đam mê thi thố tài năng Vũ Như Tô nào có hiểu được sâu xa, trên thực tế, Cửu Trùng Đài đã xây dựng bằng mồ hôi xương máu của nhân dân và nếu được hoàn thành thì nó cũng chỉ là nơi ăn chơi xa xỉ, sa đoạ của vua chúa, giống như công trình kiến trúc “Vạn Niên” của triều đình Nguyễn sau này: “Vạn niên là vạn niên nào? Thành xây xương lính, hào đào máu dân”. Như vậy, Vũ Như Tô đã sai lầm khi lợi dụng quyền lực của bạo chúa để thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình. Chỉ đứng trên lập trường nghệ sĩ thuần tuý nên đã vô hình chung, trở thành kẻ đối nghịch với nhân dân, gây đau khổ cho nhân dân. Để xây dựng Cửu đài, triều đình đã ra lệnh tăng sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng nước kiệt; thợ oán Vũ vì nhiều người chết vì tai nạn, vì ông cho chém những kẻ bỏ trốn. Vì thế cho nên nhân dân căm giận bạo chúa, đồng thời cũng oán trách, nguyền rủa, thậm chí là oán hận kiến trúc sư đầy tài năng Vũ Như Tô và cuối cùng đã giết chết cả tên hôn quan bạo chúa Lê Tương Dực lẫn Vũ Như Tô, đốt cháy cả Cửu Trùng Đài.
Mâu thuẫn đỉnh điểm được giải quyết bằng vũ lực. Trịnh Duy Sản cầm đầu bọn phản nghịch đã náo loạn kinh thành. Chúng tìm Lê Tương Dực và giết chết tên hôn quân ấy. Chúng đốt phá Cửu trùng đài, chúng tìm Vũ Như Tô để rửa hận. Nhưng Vũ đúng là một nhân vật bi kịch. Ông không thể nào trả lời câu hỏi “xây dựng Cửu Trùng Đài là đúng hay sai, là có công hay có tội?. Thật đau đớn thay, bi kịch thay cho đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan Thiềm mặt cắt không còn hột máu, hốt hoảng đến báo cho Vũ Như Tô, nếu không chạy trốn thì ông sẽ bị giết, nhưng Vũ Như Tô vẫn không chịu đi và vẫn day dứt một câu hỏi: “Tôi có tội gì? Tôi làm gì nên tội? Làm gì phải trốn?”. Thậm chíVũ Như Tô còn khẳng định “ Bà không nên lo cho tôi. Tôi không trốn đâu. Người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cũng để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả đây!”. Khi được Đan Thiềm giục giã chạy trốn bởi nguy hiểm cận kề, Vũ Như Tô còn “Ngây thơ” : “Họ tìm tôi nhưng có lý gì họ giết tôi. Tôi có gây oán gây thù gì với ai”. Câu nói thể hiện sự bảo thủ và có phần mê muội. Ngay cả khi bị bắt Vũ vẫn không tin là sự thật, vẫn vĩnh biệt Đan Thiềm “đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỷ”. Khi bị quân sĩ vả vào miệng Vũ vẫn không ngừng nói về Cửu đài: “…vài năm nữa, Đài cửu trùng sẽ hoàn thành, cao cả, huy hoàng giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai”. Đến chết vẫn hi vọng sẽ thuyết phục được An Hoà Hầu, một kẻ cầm đầu một phe nổi loạn, song sự thực đã diễn ra một cách phũ phàng tàn nhẫn, không như ảo tưởng của Vũ Như Tô. An Hoà Hầu đã cho quân đốt phá kinh thành, đốt phá cả Cửu trùng đài. Cửu Trùng đài tan thành tro bụi.
Tất cả chỉ là ảo vọng. Đan Thiềm và Vũ bị bắt, Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ thì Vũ mới bừng tỉnh, ngửa mặt lên trời mà cất lên tiếng than ai oán tuỵệt vọng “Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Trời ơi! Phú cho ta cái tài để làm gì. Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Thôi thế là hết! Dẫn ta đến pháp trường”. Trong tiếng kêu than ấy, tiếng “Đan Thiềm, mộng lớn Cửu Trùng Đài” dồn dập vang lên hoà nhập vào nhau thành khúc ca bi tráng, ai oán, đầy tiếc thương. Đó chính là âm hưởng chủ đạo của đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”. Vậy là cuối cùng Vũ Như Tô cũng đã phải trả giá cho chính hành động của mình. Cái chết của người nghệ sĩ vừa đáng thương lại vừa đáng giận.
Là một nghệ sĩ đầy tài năng và giàu sáng tạo, Vũ Như Tô muốn khẳng định tài năng của mình, muốn tô điểm cho đất nước, muốn làm đẹp cho đời, nhưng khát vọng nghệ thuật và đam mê sáng tạo của ông đã đặt lầm nơi lạc chốn, lạc điệu với thời thế, xa rời thực tế, nên đã phải trả giá bằng chính sinh mệnh của bản thân và của cả công trình thấm đẫm mồ hôi tâm não của mình.Người đọc, người xemthương người nghệ sĩ có tài có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát sáng tạo, sẵn sàng hi sinh tất cả cho cái đẹp nhưng xa rời thực tế, mà phải trả giá đắt bằng cả sinh mệnh và cả công trình nghệ thuật đầy tâm huyết sáng tạo cuả mình.
Đoạn trích nói riêng và vở kịch nói chung đã để lại giá trị nhân văn sâu sắc rằng: “Không có cái đẹp tách rời cái chân cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể chỉ mang cái đẹp thuần tuý, nó phải có mục đích chân chính là phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đời. “Văn chương không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát và là nơi đi tới của văn chương”. Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công trình vĩ đại cho muôn đời, nhưng cũng biết xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa khát vọng đó với điều kiện thực tế cuộc sống với đòi hỏi của muôn dân”. Một vấn đề đặt ra nữa là “Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng, quý trọng nâng niu những giá trị nghệ thuật đích thực”.
Qua tấn bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng gợi những suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật và thực tế đời sống nhân dân. Vì vậy vấn đề tác giả đặt ra ngày ấy, giờ đây bước sang thiên niên kỉ mới, nó vẫn còn nguyên gi
TK:
https://dembuon.vn/threads/phan-tich-bai-tho-giuc-gia-xuan-dieu.133076/
“Sinh ra trên đời là một việc hết sức đơn giản nhưng sống trên đời lại là một việc rất khó” (Đ.Rpixarit). Biết bao con người từng có mặt trên cõi đời này, họ dã và đang sống, mỗi người theo một cách riêng. Tuy nhiên, sống như thế nào thì đúng nhất? Đấy vẫn luôn là câu hỏi chờ được trả lời. Một trong những câu trả lời đã được nêu ra là hai câu thơ trong bài Giục giã Xuân Diệu viết trước Cách mạng tháng Tám.
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Quan niệm sống đó có nghĩa là gì?
Đi vào tìm hiểu ý nghĩa của câu thơ, chúng ta dễ dàng nhận ra ngay rằng, Xuân Diệu đã biểu trưng cho sự sống của Việt Nam bằng hình ảnh thông thường nhất nhưng cũng điển hình nhất: Đó là ánh sáng. Nhà thơ sử dụng cấu trúc câu nhượng bộ để đưa ra một sự đánh đổi: ông sẵn sàng đổi cả trăm năm sống nhạt nhẽo lấy duy nhất chỉ một giây phút thôi, nhưng trong giây phút ấy, con người ta được sống mãnh liệt, sống hết mình, tận hưởng và tận hiến cho đời.
Đem trăm năm đổi lấy một phút là cái giá cắt cổ, đặc biệt đối với những người nhạy cảm với thời gian, yêu quí thời gian như Xuân Diệu. Vậy mà ông đã chấp nhận cái giá cắt cổ ấy nhằm khẳng định một điều: Với cuộc sống, chất lượng cần hơn là số lượng. Chỉ có sống hết mình mới thực sự là sống. Còn sống mà vô vị nhàm chán thì cũng chỉ là một kiểu chết mà thôi.
Vì sao vậy? Trước hết bởi Xuân Diệu nhận ra ràng cuộc đời này đẹp vô cùng và rất đáng sống. Mọi sự kì diệu của cuộc sống đều tập trung vào mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Hãy thử nhìn xem mùa xuân bày ra trước mắt chúng ta đẹp tươi mơn mởn biết nhường nào.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
….
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Cảnh sắc đất trời tươi trẻ, vị ngọt ngào, âm thanh quyến rũ của tình yêu cứ như mời, như gọi, ngồn ngộn tràn đầy. Nhưng than ôi! Đời người là hữu hạn, thời gian để chúng ta hưởng thụ cuộc sống không nhiều:
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
….
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi.
Cho nên, con người phải sống gấp lên, phải biết tranh thủ từng khoảnh khắc sống hết mình, yêu hết mình và dâng hiến tình yêu của mình cho tất thảy. Nhìn người sống nhàm chán, chưa từng thấy cuộc đời là thú vị thì thử hỏi cuộc sống của họ là gì ngoài cái vô nghĩa, mà vô nghĩa còn là gì ngoài cái chết nửa đâu.
Vì thế, không phải bất cứ câu thơ nào cũng có thể trở thành quan niệm sống. Chỉ là quan niệm sống những câu thơ đúc kết ở đỉnh cao trạng thái tâm lý, tình nhận thức, suy nghĩ, khát khao của con người trước cuộc đời.
Nó trở thành một câu thơ triết lí ăn sâu vào máu thịt, quyết định sự phản ứng và cách cư xử của con người trong xã hội. Nó không chỉ ảnh hưởng ở một vài thời điểm bộc phát mà ảnh hưởng lên cả một chặng đời, có khi cả một đời người ta. Riêng đối với nhà văn, quan niệm sống còn chi phối hàng loạt các sáng tác, để lại dấu ấn rất đậm trong thơ văn của anh ta. Xuân Diệu không phải là ngoại lệ.
Trung thành với quan niệm đã đề ra, nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam ấy luôn luôn sống hết mình. Niềm ham sống trở thành một sức hấp dẫn đặc biệt của thơ ông.
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;
Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài;
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.
Nhịp điệu đoạn thơ nhanh, gấp, dồn dập, thể hiện trạng thái cảm xúc cuống quýt, Vồ vập của Xuân Diệu với cuộc đời. Nhà thơ muốn tận hưởng sự sống ngay từ khi nó mới bắt đầu, đang ở độ non tơ mơn mớn. Ông mở lòng ra đón nhận mùa xuân, tình yêu, cảm nhận nó bằng tất cả sức mạnh mình có thể. Cho nên suốt cả đoạn thơ, không thể tìm ra một từ nào phẳng lặng, vừa vừa. Tất cả đều như mạnh lên, căng mình ra, quấn đầy sự sống và say sưa với nó.
Đối với Xuân Diệu, sống đồng nghĩa với yêu. Cho nên sống hết mình cũng có nghĩa là yêu hết mình. Chẳng thấy mà tình yêu của ông với tất cả mọi vật trên đời đều nồng nàn như tình yêu đôi lứa. Khao khát giao cảm với đời thực sự lên đến đỉnh điểm khi Xuân Diệu thốt lên.
Xuân Diệu yêu đời như thế, sống mãnh liệt như thế, bảo ông làm sao có thể chấp nhận được cuộc sống đơn điệu nhàm tẻ? Trái lại, ông còn phải phản ứng, phải phê phán nó.
Từ bài thơ Vội vàng và Giục giã đã toát lên một sự khẳng định và một sự phủ định. Đặt lên bàn cân nhận thức hai cuộc sống với hai giá trị có hình thức tương đương: một bên số lượng rất ít, chất lượng cực cao còn bên kia, số lượng rất cao, chất lượng thì cực ít, Xuân Diệu dã khẳng định cuộc sống có chất lượng và phủ định cuộc sống vô nghĩa. Ông đã chứng minh hùng hồn cho quan niệm sống của mình. Quan niệm ấy trở thành một luồng gió mới thổi vào văn học lãng mạn 30 – 45.
Luồng gió mới này thực chất nảy sinh từ câu thơ phần trên, bài viết chỉ đề cặp đến sợi dây lôgic ẩn giấu đằng sau – nguyên nhân sâu xa – bây giờ ta mới xem xét đến. Tại sao trong thời phong kiến chưa có ai để ra quan niệm sống này? Là bởi vì khi ấy, bản ngã của con người bị triệt tiêu. Và ở thời đại của Xuân Diệu, cái tôi cá nhân dễ được thức tỉnh, hiện diện một cách hoàn chỉnh, đường hoàng.
Con người ta nói nhiều đến bản thân, đến những cái mình nghĩ, mình muốn. Riêng trong bài Vội vàng, chữ “tôi” xuất hiện tám lần. Và “ta muốn” chính là tên con sư tử dũng mãnh một trong ba biến thể của tinh thần mà nhà triết gia vĩ đại Nietsche của phương Tây từng nói đến. Trách nhiệm quyền năng của con sư tử này là tự giải phóng của mình khỏi những áp đặt tồn tại ngang đời, trở nên thung dung cho những sáng tạo mới. Nhờ thế, Xuân Diệu ý thực được thời gian trôi qua đem lại quá nhiều mất mát cho cá nhân.
Ông ham sống. Khát vọng, tình cảm của ông khác hẳn khát vọng, tình cảm của con người thời trung đại. Nó không bị bó buộc trong một chừng mực nhất định nào mà được đẩy lên đến cao trào, đến mức tự đốt cháy để tỏa sáng.
Cũng là cái tôi nhưng Thế Lữ nhốt mình trong tháp ngà nghệ thuật, Hàn Mặc Tử say sưa ở cõi mộng, trường điên… Chỉ có Xuân Diệu thiết tha gắn bó với vườn lảy hương sắc. Cá tính và thời cuộc đã làm nên hoàn cảnh nảy sinh cho ham muốn sống hết mình của nhà thơ, đồng thời, cũng là một trong những cơ sở để đánh giá giá trị quan niệm ấy.
Trước tiên, phải khẳng định quan niệm sống của Xuân Diệu là chân lí muôn đời không ai có thể phủ nhận. Nó hướng tới con người, nhân đạo hóa con người khiến con người ta sống có ý nghĩa hơn, sống người hơn.
Trong xã hội Việt Nam thời kì 30-45 ngột ngạt bấy giờ, nó chỉ ra được ra giá trị đích thực của cuộc sống nơi trần thế. Nó mang đến cho tầng lớp thanh niên tiểu tư sản đang chìm trong lối sống buồn chán, ảm đạm và vô vị một cách sống mới sôi nổi, mạnh mẽ. Nó lay động và thắp sáng lên trong trái tim của họ niềm yêu đời, yêu sống mạnh mẽ thiết tha. Nó khơi dậy đời sống của những thế giới nội tâm phong phú và tinh tế.
Đối với chúng ta hôm nay và cả những thế hệ mai sau, quan niệm sống ấy vẫn sẽ không ngừng phát huy tác dụng. Quả là tinh thần, quan niệm của Xuân Diệu được thể hiện rất ấn tượng. Tuy nhiên, có người đặt ra câu hỏi là: Trả một cái giá cát cố như thế, Xuân Diệu có thể hiện cực đoan quá chăng?
Xét trên nghĩa đen của văn bản, đúng là ông có đưa ra một sự đối lập hơi quá mức. Theo quan niệm xưa, trăm năm là giới hạn lớn nhất cho vòng đời của con người. Cuộc sống của một người không nhất thiết phải đi hết một trăm năm ấy. Nhưng một phút? Quá ngắn ngủi để có thể coi là một đời người, chỉ có thể coi là một khoảnh khắc sống mà thôi. Nếu đời người như bóng cau qua cưa sổ thì một phút kia thực chẳng có nghĩa lí gì.
Song, ta không được quên rằng ngôn ngữ văn học là thứ ngôn ngữ kì diệu không hề đồng nhất với bất cứ thứ ngôn ngữ nào khác. Một trong những đặc điểm cùa nó là ít nhiều đều mang tính tượng trưng và chỉ đòi hỏi sự chính xác về bản chất.
Chẳng phải các nhà văn vẫn dùng cái vô lí để nói cái có lí, cái hiện tượng để nói cái bản chất, cái ngẫu nhiên để nói cái qui luật đó sao? Vậy thi hà cớ gì Xuân Diệu lại không thể dùng một cách diễn đạt, một hiện tượng quá mức để nói về một sự thật chẳng quá mức tí nào?
Tôi cho rằng nếu qua trên đời này có ai sống vô vị hệt như hai cô gái trong Tỏa nhị kiều, không có đời sống hoạt động bên ngoài cũng chẳng có đời sống nội tâm bên trong, sống lẫn vào đồ vật, bị đồ vật hóa và “chết cũng là mục đích” thì cuộc sống của họ kéo dài một trăm năm, chứ có kéo dài một nghìn năm cũng chẳng có ích gì, chẳng để làm gi.
Và chăng, Xuân Diệu đâu có nói chỉ cần sống một phút chất lượng thôi là đủ. Ông đã đặt quan niệm sống của mình trong tình thế bất đắc dĩ nhất, buộc phải lựa chọn một trong hai khả năng. Điều đó là rất đúng bởi vì bản chất của mọi hiện tượng, qui luật, qui luật và cả còn người chí bộc rõ nhất trong hoàn cảnh điển hình nhất. Cũng như khi người ta nói: sinh ra trên đời, ai mà chẳng sợ chết; nhưng chết vinh còn hơn sống nhục.
Về mặt đúng sai, thiết nghĩ bài thơ của Xuân Diệu không còn gì phải bàn đến nữa. Ta chỉ nói về một số ít điểm hạn chế của nó thôi. Để trả lời cho câu hỏi “’ như thế nào thì đúng nhất’’, quan niệm Xuân Diệu thể hiện qua bài thơ.
Trong bài Giục giã là không sai, nhưng nó có vẻ chung chung quá. Ta thấy yêu đời hơn, ta muốn sống có ý nghĩa. Song, một vấn đề giục giã: Sống như thế nào thì mới có ý nghĩa? Bản thân hai câu thơ của Xuân Diệu không giải quyết được vấn đề này. Có lẽ, trong khuôn khổ câu chữ hạn hẹp, không có điều kiện thể hiện quan niệm sống của mình.
Vậy, trong suy nghĩ của ông lúc bấy giờ, sống hết mình có nghĩa là gì? Ta hãy thử tìm hiểu điều này qua các sáng tác thơ văn của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám – những tác phẩm đã chứng minh và cụ thể hóa quan niệm sống kia.
Điều đầu tiên là nhận thấy, cũng như đã khẳng định khi phân tích bài Vội vàng là trong quan niệm của Xuân Diệu, sống đồng nghĩa với yêu. Khát vọng tận hiến cho đời chỉ là tận hiến tình yêu. Trong xã hội bị áp bức đen tối bấy giờ, chỉ có tình yêu lứa đôi và cảnh sắc ngoại giới thôi thì không thể xoay chuyển gì được. Xuân Diệu khao khát giao cảm với đời nhưng có phải đời lúc nào cũng dang tay chờ đón, đáp lại ông đâu. Không ít lần, Xuân Diệu đã phải cay đắng thốt lên:
Lòng ta là một cơn mưa lũ,
Đã gặp lòng em là lá khoai
Mưa biết tha hồ rơi hạt ngọc,
Lá xanh không ướt đến da ngoài.
Niềm khát sống bắt nguồn từ cái tôi và là một mặt trong mâu thuẫn lớn lao của cái tôi ấy. Cho nên, dù thế nào nó cũng không thể tách rời mặt thứ hai kia: đó là nỗi cô đơn, hoài nghi, bế tắc trước cuộc đời. Đây là một bi kịch mang tính chất xã hội bởi lẽ xã hội tư sản thổi phồng cá nhân và những khát vọng cá nhân đặc biệt là khát vọng hưởng thụ, nhưng lại quay lưng với những khốổđau bế tắc của cá nhân.
Do đó, xét quan niệm sống này trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ và trong môi tương quan với những mâu thuẫn khác của đời sống tinh thần con người thì trong một phương diện nào đó, say sưa chẳng thể an ủi dài lâu.
Sau những giờ phút mê mải với tình yêu, Xuân Diệu lại phải đối mặt với những bế tắc cô đơn của chính mình, nên ông sợ hãi tương lai: “Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai”. Cũng vì thế mà thời gian trong mắt Xuân Diệu chỉ là sự vận động đến lụi tàn. Cái chung chung, khái quát thực ra lại là may mắn lớn cho hai câu thơ trong bài Giục giã này.
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Hai câu ấy chỉ giữ lại phần chân lý tinh hoa nhất trong quan niệm sông của Xuân Diệu lúc đó, nó đúng đắn hoàn toàn. Còn những cái cụ thể ư? Người đời cứ việc hiểu theo ý mình. Tư tưởng của con người không ngừng phát triển. Cũng như Xuân Diệu ấy, nhưng khi đi theo cách mạng, cuộc đời ông chuyển sang bức tranh mới, tư tưởng quan niệm của ông cũng có những thay đối lớn lao. Chỉ có một điều duy nhất không hề thay đổi đó là ông vẫn sông hết mình.
Điểm khác là khái niệm tận hiến không giới hạn trong tình yêu nữa mà bao gồm cả sự lao động sáng tạo, đem những tinh túy của mỗi cá nhân ra góp vào đời, tô đẹp cho cuộc sống ngày một đẹp tươi. Con người không chỉ sống vì mình mà sông vì người khác. Phải hiểu “sống huy hoàng” theo nghĩa mới này thì mới đúng. Như vậy, trong thời đại ngày nay, quan niệm sống của Xuân Diệu mới thực sự phát huy đến mức cao độ tác dụng của nó đôi với con người.
Các Mác từng nói “Tình yêu rất nhiều nhưng cũng vĩ đại nhất là tình yêu cuộc sống”. Chứa đựng hạt nhân của sự vĩnh cữuu này, quan niệm sống của Xuân Diệu trong bài thơ Giục giã không bao giờ bị vùi vào quên lãng, nó mãi là một trong những kim chỉ nam của con người, nhất là những người trẻ tuổi đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Nó chỉ cho con người ta biết phải làm gi. Bắt đẩu là một niềm ham sông dây lên trong lòng họ…
Đặc điểm: