Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
Bài giảng giúp HS:
- Tìm hiểu chi tiết:
+ Cấu trúc và vẻ đẹp của cảnh quan
+ Cách trình bày thông tin trong văn bản
- Tổng kết:
+ Nội dung
+ Nghệ thuật
Yên Tử, núi thiêng
Giữa những cánh cung núi trùng điệp của khu Đông Bắc mênh mông, Yên Tử cao 1068m, vút lên chon von tựa một vọng gác. Từ xưa cảnh núi rừng Yên Tử đã nổi tiếng là một nơi ngoạn mục. Các triều đại phong kiến ở nước ta đều liệt Yên Tử vào loại “danh sơn” (núi đẹp). Sau khi Thiền phái Trúc Lâm ra đời và đi liền với nó, hệ thống chùa tháp uy nghi mọc lên chi chít, thì Yên Tử càng thêm quyến rũ du khách bốn phương.
Yên Tử ngày nay thuộc thành phố Uông Bí, cách trung tâm thành phố 14 km về phía tây bắc. Từ Hòn Gai, ngược trục đường 18A 40 km, ta sẽ đến Uông Bí. Tại đây ta nghỉ ngơi chốc lát, chuẩn bị thêm lương thực, thực phẩm cho chuyến hành hương tới “Núi vua hoá Phật” và ngắm cảnh vật thành phố.
Từ cổng nhà máy điện Uông Bí, ta theo đường vào mỏ Vàng Danh đến Lán Tháp, đến đây ta rẽ phía tây theo con đường qua xã Thượng Yên Công và đi tiếp 4 km nữa thì đến Yên Tử. Đoạn đường từ Lán Tháp vào Yên Tử dài 9 km, đi giữa lòng thung lũng dài và hẹp, giới hạn bởi dãy núi Cánh Gà ở phía nam, Bảo Đài ở phía bắc, thoạt trông như những thành quách cổ xưa. Những khu vườn xum xuê cây ăn quả: vải, nhãn, mận, đào, mùa nào thức ấy, những mảnh ruộng mía thân tím thẳng tắp, nối tiếp hai bên đường. Suối Giải Oan trong veo, chảy ngoằn ngoèo trong thung lũng, trên nền đá cuội và sỏi trắng, cắt con đường từ Lán Tháp vào Yên Tử 9 đoạn, khiến du khách ngỡ là 9 con suối khác nhau. Hai bên bờ suối, hoa dành và hoa bướm vàng rộm. Đây đó có những khóm hoa hải đường chen với hoa thuỷ tiên đang nở bung những cánh mỏng phớt tím.
Vào mùa xuân, sau Tết âm lịch, khi tiết trời dịu mát, rừng Yên Tử nở lộc đơm hoa. Khách thập phương rộn ràng đổ về Yên Tử trẩy hội. Khách tham quan thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều nghề nghiệp, kể cả trong nước và ngoài nước, hăm hở, nhằm đỉnh núi mờ sương bước vội, mong chóng đến nơi mà mình mơ ước.
Tên xa xưa của Yên Tử là Núi Voi, bởi dáng núi giống hình con voi quay đầu về phía biển. Trong sử sách, Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn (núi mây trắng), bởi quanh năm đỉnh núi chìm trong mây trắng. Từ xưa, nhiều tín đồ đạo Phật ở nước ta đã say đắm cảnh vật Yên Tử “Lối đi có trúc, khe suối có hoa” (thơ Phạm Sư Mạnh), cũng là nơi thâm nghiêm, u tịch. Họ đã đến dựng chùa mái tranh vách nứa dưới chân núi Yên Tử, ngày ngày cầu kinh niệm Phật. Theo Hải Dương phong vật chí, từ xưa Yên Tử đã nổi danh là “Phúc địa thứ tư của Giao Châu”, là ngọn núi thiêng, chốn tu hành tuyệt đỉnh của những người mộ đạo như dân gian truyền tụng:
Nào ai quyết chí tu hành
Có về Yên Tử mới đành lòng tu.
Theo một số thư tịch cổ, vào đầu Công nguyên, một người Trung Quốc tên là An Kỳ Sinh đã lặn lội tới Yên Tử tu tiên và luyện đan để tìm thuốc trường sinh bất tử. An Kỳ Sinh là bạn thân của Khoái Thông, người từng bày mưu tính kế cho Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Đến Yên Tử, An Kỳ Sinh ở hẳn trong núi, vừa tu đạo, vừa luyện thuốc. Ông lập ra Am Dược, Am Hoa, Am Thung. Thuốc trường sinh chắc chắn ông không tìm thấy nhưng tục truyền, khi mất, ông đã hoá thân vào núi. Khối đá có hình người trên đỉnh Yên Tử được người đời sau gọi là tượng An Kỳ Sinh. [...]
Đạo Phật phát triển cực thịnh trong thời Lý. Ngôi chùa sớm nhất dựng trong thời kì này ở Yên Tử là chùa Phù Vân. Theo sách Thiền uyển tập anh, Thông Thiền cư sĩ, đệ tử của Thường Chiếu thuộc thế hệ 13 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông đã tu hành ở chùa này vào cuối thời Lý. Ông mất ở đây năm 1228. Đến thời Trần, vị cao tăng trụ trì ở Yên Tử có uy tín lớn thời bấy giờ, được Trần Thái Tông khi lên ngôi vua, phong tặng là Phù Vân quốc sư.
Năm Bính Thân (tức năm 1236), ngày 3 tháng 4, vào lúc 10 giờ đêm, mang nỗi u uất trong lòng không giãi bày được cùng ai, vua Trần Thái Tông đã vượt thành, trốn khỏi Thăng Long, ruổi ngựa theo hướng núi Yên Tử. Đến 2 giờ chiều ngày 5 tháng 4, Thái Tông đến chân núi. Sáng ngày 6, ông trèo lên núi, gặp nhà sư Phù Vân, một người bạn cũ, để đưa một lời thỉnh cầu. [...] Nhà sư Phù Vân trả lời: “Núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm. Tâm lặng lẽ mà biết, ấy là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ được cái tâm ấy, thì lập tức thành Phật. Không phải khốn khổ đi tìm ở bên ngoài”.
Câu trả lời của Phù Vân quốc sư thể hiện một quan điểm mới về Thiền. Chính Thái Tông khi nhắc lại câu nói của Phù Vân quốc sư, đã gọi ông là Trúc Lâm đạo sĩ. Phải chăng người đặt nền móng cho phái Thiền Trúc Lâm, một Thiền phái Phật giáo đặc trưng Việt Nam [...], mà sau này Trần Nhân Tông là ông tổ thứ nhất, chính là Phù Vân quốc sư?
Nhưng Yên Tử thật sự trở thành nơi trung tâm náo nhiệt của Phật giáo Trúc Lâm chỉ từ khi vua Trần Nhân Tông đến Yên Tử tu hành. Từ đó, cảnh sắc thiên nhiên ngoạn mục hoà quyện với chùa, am, tháp cổ kính của Yên Tử, vừa như chốn thần tiên, vừa lại gần gũi, gắn bó với con người. [...]
Sơ đồ khu di tích Yên Tử, in trong Cõi thiêng Yên Tử
(Theo Thi Sảnh, Cõi thiêng Yên Tử, Sở Văn hoá - Thông tin Quảng Ninh, 2002, tr. 11-15)
Cấu trúc của Yên Tử bao gồm những phần chính nào dưới đây?
Yên Tử, núi thiêng
Giữa những cánh cung núi trùng điệp của khu Đông Bắc mênh mông, Yên Tử cao 1068m, vút lên chon von tựa một vọng gác. Từ xưa cảnh núi rừng Yên Tử đã nổi tiếng là một nơi ngoạn mục. Các triều đại phong kiến ở nước ta đều liệt Yên Tử vào loại “danh sơn” (núi đẹp). Sau khi Thiền phái Trúc Lâm ra đời và đi liền với nó, hệ thống chùa tháp uy nghi mọc lên chi chít, thì Yên Tử càng thêm quyến rũ du khách bốn phương.
Yên Tử ngày nay thuộc thành phố Uông Bí, cách trung tâm thành phố 14 km về phía tây bắc. Từ Hòn Gai, ngược trục đường 18A 40 km, ta sẽ đến Uông Bí. Tại đây ta nghỉ ngơi chốc lát, chuẩn bị thêm lương thực, thực phẩm cho chuyến hành hương tới “Núi vua hoá Phật” và ngắm cảnh vật thành phố.
Từ cổng nhà máy điện Uông Bí, ta theo đường vào mỏ Vàng Danh đến Lán Tháp, đến đây ta rẽ phía tây theo con đường qua xã Thượng Yên Công và đi tiếp 4 km nữa thì đến Yên Tử. Đoạn đường từ Lán Tháp vào Yên Tử dài 9 km, đi giữa lòng thung lũng dài và hẹp, giới hạn bởi dãy núi Cánh Gà ở phía nam, Bảo Đài ở phía bắc, thoạt trông như những thành quách cổ xưa. Những khu vườn xum xuê cây ăn quả: vải, nhãn, mận, đào, mùa nào thức ấy, những mảnh ruộng mía thân tím thẳng tắp, nối tiếp hai bên đường. Suối Giải Oan trong veo, chảy ngoằn ngoèo trong thung lũng, trên nền đá cuội và sỏi trắng, cắt con đường từ Lán Tháp vào Yên Tử 9 đoạn, khiến du khách ngỡ là 9 con suối khác nhau. Hai bên bờ suối, hoa dành và hoa bướm vàng rộm. Đây đó có những khóm hoa hải đường chen với hoa thuỷ tiên đang nở bung những cánh mỏng phớt tím.
Vào mùa xuân, sau Tết âm lịch, khi tiết trời dịu mát, rừng Yên Tử nở lộc đơm hoa. Khách thập phương rộn ràng đổ về Yên Tử trẩy hội. Khách tham quan thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều nghề nghiệp, kể cả trong nước và ngoài nước, hăm hở, nhằm đỉnh núi mờ sương bước vội, mong chóng đến nơi mà mình mơ ước.
Tên xa xưa của Yên Tử là Núi Voi, bởi dáng núi giống hình con voi quay đầu về phía biển. Trong sử sách, Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn (núi mây trắng), bởi quanh năm đỉnh núi chìm trong mây trắng. Từ xưa, nhiều tín đồ đạo Phật ở nước ta đã say đắm cảnh vật Yên Tử “Lối đi có trúc, khe suối có hoa” (thơ Phạm Sư Mạnh), cũng là nơi thâm nghiêm, u tịch. Họ đã đến dựng chùa mái tranh vách nứa dưới chân núi Yên Tử, ngày ngày cầu kinh niệm Phật. Theo Hải Dương phong vật chí, từ xưa Yên Tử đã nổi danh là “Phúc địa thứ tư của Giao Châu”, là ngọn núi thiêng, chốn tu hành tuyệt đỉnh của những người mộ đạo như dân gian truyền tụng:
Nào ai quyết chí tu hành
Có về Yên Tử mới đành lòng tu.
Theo một số thư tịch cổ, vào đầu Công nguyên, một người Trung Quốc tên là An Kỳ Sinh đã lặn lội tới Yên Tử tu tiên và luyện đan để tìm thuốc trường sinh bất tử. An Kỳ Sinh là bạn thân của Khoái Thông, người từng bày mưu tính kế cho Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Đến Yên Tử, An Kỳ Sinh ở hẳn trong núi, vừa tu đạo, vừa luyện thuốc. Ông lập ra Am Dược, Am Hoa, Am Thung. Thuốc trường sinh chắc chắn ông không tìm thấy nhưng tục truyền, khi mất, ông đã hoá thân vào núi. Khối đá có hình người trên đỉnh Yên Tử được người đời sau gọi là tượng An Kỳ Sinh. [...]
Đạo Phật phát triển cực thịnh trong thời Lý. Ngôi chùa sớm nhất dựng trong thời kì này ở Yên Tử là chùa Phù Vân. Theo sách Thiền uyển tập anh, Thông Thiền cư sĩ, đệ tử của Thường Chiếu thuộc thế hệ 13 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông đã tu hành ở chùa này vào cuối thời Lý. Ông mất ở đây năm 1228. Đến thời Trần, vị cao tăng trụ trì ở Yên Tử có uy tín lớn thời bấy giờ, được Trần Thái Tông khi lên ngôi vua, phong tặng là Phù Vân quốc sư.
Năm Bính Thân (tức năm 1236), ngày 3 tháng 4, vào lúc 10 giờ đêm, mang nỗi u uất trong lòng không giãi bày được cùng ai, vua Trần Thái Tông đã vượt thành, trốn khỏi Thăng Long, ruổi ngựa theo hướng núi Yên Tử. Đến 2 giờ chiều ngày 5 tháng 4, Thái Tông đến chân núi. Sáng ngày 6, ông trèo lên núi, gặp nhà sư Phù Vân, một người bạn cũ, để đưa một lời thỉnh cầu. [...] Nhà sư Phù Vân trả lời: “Núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm. Tâm lặng lẽ mà biết, ấy là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ được cái tâm ấy, thì lập tức thành Phật. Không phải khốn khổ đi tìm ở bên ngoài”.
Câu trả lời của Phù Vân quốc sư thể hiện một quan điểm mới về Thiền. Chính Thái Tông khi nhắc lại câu nói của Phù Vân quốc sư, đã gọi ông là Trúc Lâm đạo sĩ. Phải chăng người đặt nền móng cho phái Thiền Trúc Lâm, một Thiền phái Phật giáo đặc trưng Việt Nam [...], mà sau này Trần Nhân Tông là ông tổ thứ nhất, chính là Phù Vân quốc sư?
Nhưng Yên Tử thật sự trở thành nơi trung tâm náo nhiệt của Phật giáo Trúc Lâm chỉ từ khi vua Trần Nhân Tông đến Yên Tử tu hành. Từ đó, cảnh sắc thiên nhiên ngoạn mục hoà quyện với chùa, am, tháp cổ kính của Yên Tử, vừa như chốn thần tiên, vừa lại gần gũi, gắn bó với con người. [...]
Sơ đồ khu di tích Yên Tử, in trong Cõi thiêng Yên Tử
(Theo Thi Sảnh, Cõi thiêng Yên Tử, Sở Văn hoá - Thông tin Quảng Ninh, 2002, tr. 11-15)
Cảnh sắc của Yên Tử được thể hiện qua những phương diện nào dưới đây?
Yên Tử, núi thiêng
Giữa những cánh cung núi trùng điệp của khu Đông Bắc mênh mông, Yên Tử cao 1068m, vút lên chon von tựa một vọng gác. Từ xưa cảnh núi rừng Yên Tử đã nổi tiếng là một nơi ngoạn mục. Các triều đại phong kiến ở nước ta đều liệt Yên Tử vào loại “danh sơn” (núi đẹp). Sau khi Thiền phái Trúc Lâm ra đời và đi liền với nó, hệ thống chùa tháp uy nghi mọc lên chi chít, thì Yên Tử càng thêm quyến rũ du khách bốn phương.
Yên Tử ngày nay thuộc thành phố Uông Bí, cách trung tâm thành phố 14 km về phía tây bắc. Từ Hòn Gai, ngược trục đường 18A 40 km, ta sẽ đến Uông Bí. Tại đây ta nghỉ ngơi chốc lát, chuẩn bị thêm lương thực, thực phẩm cho chuyến hành hương tới “Núi vua hoá Phật” và ngắm cảnh vật thành phố.
Từ cổng nhà máy điện Uông Bí, ta theo đường vào mỏ Vàng Danh đến Lán Tháp, đến đây ta rẽ phía tây theo con đường qua xã Thượng Yên Công và đi tiếp 4 km nữa thì đến Yên Tử. Đoạn đường từ Lán Tháp vào Yên Tử dài 9 km, đi giữa lòng thung lũng dài và hẹp, giới hạn bởi dãy núi Cánh Gà ở phía nam, Bảo Đài ở phía bắc, thoạt trông như những thành quách cổ xưa. Những khu vườn xum xuê cây ăn quả: vải, nhãn, mận, đào, mùa nào thức ấy, những mảnh ruộng mía thân tím thẳng tắp, nối tiếp hai bên đường. Suối Giải Oan trong veo, chảy ngoằn ngoèo trong thung lũng, trên nền đá cuội và sỏi trắng, cắt con đường từ Lán Tháp vào Yên Tử 9 đoạn, khiến du khách ngỡ là 9 con suối khác nhau. Hai bên bờ suối, hoa dành và hoa bướm vàng rộm. Đây đó có những khóm hoa hải đường chen với hoa thuỷ tiên đang nở bung những cánh mỏng phớt tím.
Vào mùa xuân, sau Tết âm lịch, khi tiết trời dịu mát, rừng Yên Tử nở lộc đơm hoa. Khách thập phương rộn ràng đổ về Yên Tử trẩy hội. Khách tham quan thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều nghề nghiệp, kể cả trong nước và ngoài nước, hăm hở, nhằm đỉnh núi mờ sương bước vội, mong chóng đến nơi mà mình mơ ước.
Tên xa xưa của Yên Tử là Núi Voi, bởi dáng núi giống hình con voi quay đầu về phía biển. Trong sử sách, Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn (núi mây trắng), bởi quanh năm đỉnh núi chìm trong mây trắng. Từ xưa, nhiều tín đồ đạo Phật ở nước ta đã say đắm cảnh vật Yên Tử “Lối đi có trúc, khe suối có hoa” (thơ Phạm Sư Mạnh), cũng là nơi thâm nghiêm, u tịch. Họ đã đến dựng chùa mái tranh vách nứa dưới chân núi Yên Tử, ngày ngày cầu kinh niệm Phật. Theo Hải Dương phong vật chí, từ xưa Yên Tử đã nổi danh là “Phúc địa thứ tư của Giao Châu”, là ngọn núi thiêng, chốn tu hành tuyệt đỉnh của những người mộ đạo như dân gian truyền tụng:
Nào ai quyết chí tu hành
Có về Yên Tử mới đành lòng tu.
Theo một số thư tịch cổ, vào đầu Công nguyên, một người Trung Quốc tên là An Kỳ Sinh đã lặn lội tới Yên Tử tu tiên và luyện đan để tìm thuốc trường sinh bất tử. An Kỳ Sinh là bạn thân của Khoái Thông, người từng bày mưu tính kế cho Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Đến Yên Tử, An Kỳ Sinh ở hẳn trong núi, vừa tu đạo, vừa luyện thuốc. Ông lập ra Am Dược, Am Hoa, Am Thung. Thuốc trường sinh chắc chắn ông không tìm thấy nhưng tục truyền, khi mất, ông đã hoá thân vào núi. Khối đá có hình người trên đỉnh Yên Tử được người đời sau gọi là tượng An Kỳ Sinh. [...]
Đạo Phật phát triển cực thịnh trong thời Lý. Ngôi chùa sớm nhất dựng trong thời kì này ở Yên Tử là chùa Phù Vân. Theo sách Thiền uyển tập anh, Thông Thiền cư sĩ, đệ tử của Thường Chiếu thuộc thế hệ 13 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông đã tu hành ở chùa này vào cuối thời Lý. Ông mất ở đây năm 1228. Đến thời Trần, vị cao tăng trụ trì ở Yên Tử có uy tín lớn thời bấy giờ, được Trần Thái Tông khi lên ngôi vua, phong tặng là Phù Vân quốc sư.
Năm Bính Thân (tức năm 1236), ngày 3 tháng 4, vào lúc 10 giờ đêm, mang nỗi u uất trong lòng không giãi bày được cùng ai, vua Trần Thái Tông đã vượt thành, trốn khỏi Thăng Long, ruổi ngựa theo hướng núi Yên Tử. Đến 2 giờ chiều ngày 5 tháng 4, Thái Tông đến chân núi. Sáng ngày 6, ông trèo lên núi, gặp nhà sư Phù Vân, một người bạn cũ, để đưa một lời thỉnh cầu. [...] Nhà sư Phù Vân trả lời: “Núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm. Tâm lặng lẽ mà biết, ấy là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ được cái tâm ấy, thì lập tức thành Phật. Không phải khốn khổ đi tìm ở bên ngoài”.
Câu trả lời của Phù Vân quốc sư thể hiện một quan điểm mới về Thiền. Chính Thái Tông khi nhắc lại câu nói của Phù Vân quốc sư, đã gọi ông là Trúc Lâm đạo sĩ. Phải chăng người đặt nền móng cho phái Thiền Trúc Lâm, một Thiền phái Phật giáo đặc trưng Việt Nam [...], mà sau này Trần Nhân Tông là ông tổ thứ nhất, chính là Phù Vân quốc sư?
Nhưng Yên Tử thật sự trở thành nơi trung tâm náo nhiệt của Phật giáo Trúc Lâm chỉ từ khi vua Trần Nhân Tông đến Yên Tử tu hành. Từ đó, cảnh sắc thiên nhiên ngoạn mục hoà quyện với chùa, am, tháp cổ kính của Yên Tử, vừa như chốn thần tiên, vừa lại gần gũi, gắn bó với con người. [...]
Sơ đồ khu di tích Yên Tử, in trong Cõi thiêng Yên Tử
(Theo Thi Sảnh, Cõi thiêng Yên Tử, Sở Văn hoá - Thông tin Quảng Ninh, 2002, tr. 11-15)
Nhận định nào dưới đây là đúng khi nói về cách trình bày thông tin của tác giả trong văn bản?
Yên Tử, núi thiêng
Giữa những cánh cung núi trùng điệp của khu Đông Bắc mênh mông, Yên Tử cao 1068m, vút lên chon von tựa một vọng gác. Từ xưa cảnh núi rừng Yên Tử đã nổi tiếng là một nơi ngoạn mục. Các triều đại phong kiến ở nước ta đều liệt Yên Tử vào loại “danh sơn” (núi đẹp). Sau khi Thiền phái Trúc Lâm ra đời và đi liền với nó, hệ thống chùa tháp uy nghi mọc lên chi chít, thì Yên Tử càng thêm quyến rũ du khách bốn phương.
Yên Tử ngày nay thuộc thành phố Uông Bí, cách trung tâm thành phố 14 km về phía tây bắc. Từ Hòn Gai, ngược trục đường 18A 40 km, ta sẽ đến Uông Bí. Tại đây ta nghỉ ngơi chốc lát, chuẩn bị thêm lương thực, thực phẩm cho chuyến hành hương tới “Núi vua hoá Phật” và ngắm cảnh vật thành phố.
Từ cổng nhà máy điện Uông Bí, ta theo đường vào mỏ Vàng Danh đến Lán Tháp, đến đây ta rẽ phía tây theo con đường qua xã Thượng Yên Công và đi tiếp 4 km nữa thì đến Yên Tử. Đoạn đường từ Lán Tháp vào Yên Tử dài 9 km, đi giữa lòng thung lũng dài và hẹp, giới hạn bởi dãy núi Cánh Gà ở phía nam, Bảo Đài ở phía bắc, thoạt trông như những thành quách cổ xưa. Những khu vườn xum xuê cây ăn quả: vải, nhãn, mận, đào, mùa nào thức ấy, những mảnh ruộng mía thân tím thẳng tắp, nối tiếp hai bên đường. Suối Giải Oan trong veo, chảy ngoằn ngoèo trong thung lũng, trên nền đá cuội và sỏi trắng, cắt con đường từ Lán Tháp vào Yên Tử 9 đoạn, khiến du khách ngỡ là 9 con suối khác nhau. Hai bên bờ suối, hoa dành và hoa bướm vàng rộm. Đây đó có những khóm hoa hải đường chen với hoa thuỷ tiên đang nở bung những cánh mỏng phớt tím.
Vào mùa xuân, sau Tết âm lịch, khi tiết trời dịu mát, rừng Yên Tử nở lộc đơm hoa. Khách thập phương rộn ràng đổ về Yên Tử trẩy hội. Khách tham quan thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều nghề nghiệp, kể cả trong nước và ngoài nước, hăm hở, nhằm đỉnh núi mờ sương bước vội, mong chóng đến nơi mà mình mơ ước.
Tên xa xưa của Yên Tử là Núi Voi, bởi dáng núi giống hình con voi quay đầu về phía biển. Trong sử sách, Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn (núi mây trắng), bởi quanh năm đỉnh núi chìm trong mây trắng. Từ xưa, nhiều tín đồ đạo Phật ở nước ta đã say đắm cảnh vật Yên Tử “Lối đi có trúc, khe suối có hoa” (thơ Phạm Sư Mạnh), cũng là nơi thâm nghiêm, u tịch. Họ đã đến dựng chùa mái tranh vách nứa dưới chân núi Yên Tử, ngày ngày cầu kinh niệm Phật. Theo Hải Dương phong vật chí, từ xưa Yên Tử đã nổi danh là “Phúc địa thứ tư của Giao Châu”, là ngọn núi thiêng, chốn tu hành tuyệt đỉnh của những người mộ đạo như dân gian truyền tụng:
Nào ai quyết chí tu hành
Có về Yên Tử mới đành lòng tu.
Theo một số thư tịch cổ, vào đầu Công nguyên, một người Trung Quốc tên là An Kỳ Sinh đã lặn lội tới Yên Tử tu tiên và luyện đan để tìm thuốc trường sinh bất tử. An Kỳ Sinh là bạn thân của Khoái Thông, người từng bày mưu tính kế cho Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Đến Yên Tử, An Kỳ Sinh ở hẳn trong núi, vừa tu đạo, vừa luyện thuốc. Ông lập ra Am Dược, Am Hoa, Am Thung. Thuốc trường sinh chắc chắn ông không tìm thấy nhưng tục truyền, khi mất, ông đã hoá thân vào núi. Khối đá có hình người trên đỉnh Yên Tử được người đời sau gọi là tượng An Kỳ Sinh. [...]
Đạo Phật phát triển cực thịnh trong thời Lý. Ngôi chùa sớm nhất dựng trong thời kì này ở Yên Tử là chùa Phù Vân. Theo sách Thiền uyển tập anh, Thông Thiền cư sĩ, đệ tử của Thường Chiếu thuộc thế hệ 13 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông đã tu hành ở chùa này vào cuối thời Lý. Ông mất ở đây năm 1228. Đến thời Trần, vị cao tăng trụ trì ở Yên Tử có uy tín lớn thời bấy giờ, được Trần Thái Tông khi lên ngôi vua, phong tặng là Phù Vân quốc sư.
Năm Bính Thân (tức năm 1236), ngày 3 tháng 4, vào lúc 10 giờ đêm, mang nỗi u uất trong lòng không giãi bày được cùng ai, vua Trần Thái Tông đã vượt thành, trốn khỏi Thăng Long, ruổi ngựa theo hướng núi Yên Tử. Đến 2 giờ chiều ngày 5 tháng 4, Thái Tông đến chân núi. Sáng ngày 6, ông trèo lên núi, gặp nhà sư Phù Vân, một người bạn cũ, để đưa một lời thỉnh cầu. [...] Nhà sư Phù Vân trả lời: “Núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm. Tâm lặng lẽ mà biết, ấy là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ được cái tâm ấy, thì lập tức thành Phật. Không phải khốn khổ đi tìm ở bên ngoài”.
Câu trả lời của Phù Vân quốc sư thể hiện một quan điểm mới về Thiền. Chính Thái Tông khi nhắc lại câu nói của Phù Vân quốc sư, đã gọi ông là Trúc Lâm đạo sĩ. Phải chăng người đặt nền móng cho phái Thiền Trúc Lâm, một Thiền phái Phật giáo đặc trưng Việt Nam [...], mà sau này Trần Nhân Tông là ông tổ thứ nhất, chính là Phù Vân quốc sư?
Nhưng Yên Tử thật sự trở thành nơi trung tâm náo nhiệt của Phật giáo Trúc Lâm chỉ từ khi vua Trần Nhân Tông đến Yên Tử tu hành. Từ đó, cảnh sắc thiên nhiên ngoạn mục hoà quyện với chùa, am, tháp cổ kính của Yên Tử, vừa như chốn thần tiên, vừa lại gần gũi, gắn bó với con người. [...]
Sơ đồ khu di tích Yên Tử, in trong Cõi thiêng Yên Tử
(Theo Thi Sảnh, Cõi thiêng Yên Tử, Sở Văn hoá - Thông tin Quảng Ninh, 2002, tr. 11-15)
Phương tiện phi ngôn ngữ được tác giả sử dụng trong văn bản là
Yên Tử, núi thiêng
Giữa những cánh cung núi trùng điệp của khu Đông Bắc mênh mông, Yên Tử cao 1068m, vút lên chon von tựa một vọng gác. Từ xưa cảnh núi rừng Yên Tử đã nổi tiếng là một nơi ngoạn mục. Các triều đại phong kiến ở nước ta đều liệt Yên Tử vào loại “danh sơn” (núi đẹp). Sau khi Thiền phái Trúc Lâm ra đời và đi liền với nó, hệ thống chùa tháp uy nghi mọc lên chi chít, thì Yên Tử càng thêm quyến rũ du khách bốn phương.
Yên Tử ngày nay thuộc thành phố Uông Bí, cách trung tâm thành phố 14 km về phía tây bắc. Từ Hòn Gai, ngược trục đường 18A 40 km, ta sẽ đến Uông Bí. Tại đây ta nghỉ ngơi chốc lát, chuẩn bị thêm lương thực, thực phẩm cho chuyến hành hương tới “Núi vua hoá Phật” và ngắm cảnh vật thành phố.
Từ cổng nhà máy điện Uông Bí, ta theo đường vào mỏ Vàng Danh đến Lán Tháp, đến đây ta rẽ phía tây theo con đường qua xã Thượng Yên Công và đi tiếp 4 km nữa thì đến Yên Tử. Đoạn đường từ Lán Tháp vào Yên Tử dài 9 km, đi giữa lòng thung lũng dài và hẹp, giới hạn bởi dãy núi Cánh Gà ở phía nam, Bảo Đài ở phía bắc, thoạt trông như những thành quách cổ xưa. Những khu vườn xum xuê cây ăn quả: vải, nhãn, mận, đào, mùa nào thức ấy, những mảnh ruộng mía thân tím thẳng tắp, nối tiếp hai bên đường. Suối Giải Oan trong veo, chảy ngoằn ngoèo trong thung lũng, trên nền đá cuội và sỏi trắng, cắt con đường từ Lán Tháp vào Yên Tử 9 đoạn, khiến du khách ngỡ là 9 con suối khác nhau. Hai bên bờ suối, hoa dành và hoa bướm vàng rộm. Đây đó có những khóm hoa hải đường chen với hoa thuỷ tiên đang nở bung những cánh mỏng phớt tím.
Vào mùa xuân, sau Tết âm lịch, khi tiết trời dịu mát, rừng Yên Tử nở lộc đơm hoa. Khách thập phương rộn ràng đổ về Yên Tử trẩy hội. Khách tham quan thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều nghề nghiệp, kể cả trong nước và ngoài nước, hăm hở, nhằm đỉnh núi mờ sương bước vội, mong chóng đến nơi mà mình mơ ước.
Tên xa xưa của Yên Tử là Núi Voi, bởi dáng núi giống hình con voi quay đầu về phía biển. Trong sử sách, Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn (núi mây trắng), bởi quanh năm đỉnh núi chìm trong mây trắng. Từ xưa, nhiều tín đồ đạo Phật ở nước ta đã say đắm cảnh vật Yên Tử “Lối đi có trúc, khe suối có hoa” (thơ Phạm Sư Mạnh), cũng là nơi thâm nghiêm, u tịch. Họ đã đến dựng chùa mái tranh vách nứa dưới chân núi Yên Tử, ngày ngày cầu kinh niệm Phật. Theo Hải Dương phong vật chí, từ xưa Yên Tử đã nổi danh là “Phúc địa thứ tư của Giao Châu”, là ngọn núi thiêng, chốn tu hành tuyệt đỉnh của những người mộ đạo như dân gian truyền tụng:
Nào ai quyết chí tu hành
Có về Yên Tử mới đành lòng tu.
Theo một số thư tịch cổ, vào đầu Công nguyên, một người Trung Quốc tên là An Kỳ Sinh đã lặn lội tới Yên Tử tu tiên và luyện đan để tìm thuốc trường sinh bất tử. An Kỳ Sinh là bạn thân của Khoái Thông, người từng bày mưu tính kế cho Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Đến Yên Tử, An Kỳ Sinh ở hẳn trong núi, vừa tu đạo, vừa luyện thuốc. Ông lập ra Am Dược, Am Hoa, Am Thung. Thuốc trường sinh chắc chắn ông không tìm thấy nhưng tục truyền, khi mất, ông đã hoá thân vào núi. Khối đá có hình người trên đỉnh Yên Tử được người đời sau gọi là tượng An Kỳ Sinh. [...]
Đạo Phật phát triển cực thịnh trong thời Lý. Ngôi chùa sớm nhất dựng trong thời kì này ở Yên Tử là chùa Phù Vân. Theo sách Thiền uyển tập anh, Thông Thiền cư sĩ, đệ tử của Thường Chiếu thuộc thế hệ 13 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông đã tu hành ở chùa này vào cuối thời Lý. Ông mất ở đây năm 1228. Đến thời Trần, vị cao tăng trụ trì ở Yên Tử có uy tín lớn thời bấy giờ, được Trần Thái Tông khi lên ngôi vua, phong tặng là Phù Vân quốc sư.
Năm Bính Thân (tức năm 1236), ngày 3 tháng 4, vào lúc 10 giờ đêm, mang nỗi u uất trong lòng không giãi bày được cùng ai, vua Trần Thái Tông đã vượt thành, trốn khỏi Thăng Long, ruổi ngựa theo hướng núi Yên Tử. Đến 2 giờ chiều ngày 5 tháng 4, Thái Tông đến chân núi. Sáng ngày 6, ông trèo lên núi, gặp nhà sư Phù Vân, một người bạn cũ, để đưa một lời thỉnh cầu. [...] Nhà sư Phù Vân trả lời: “Núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm. Tâm lặng lẽ mà biết, ấy là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ được cái tâm ấy, thì lập tức thành Phật. Không phải khốn khổ đi tìm ở bên ngoài”.
Câu trả lời của Phù Vân quốc sư thể hiện một quan điểm mới về Thiền. Chính Thái Tông khi nhắc lại câu nói của Phù Vân quốc sư, đã gọi ông là Trúc Lâm đạo sĩ. Phải chăng người đặt nền móng cho phái Thiền Trúc Lâm, một Thiền phái Phật giáo đặc trưng Việt Nam [...], mà sau này Trần Nhân Tông là ông tổ thứ nhất, chính là Phù Vân quốc sư?
Nhưng Yên Tử thật sự trở thành nơi trung tâm náo nhiệt của Phật giáo Trúc Lâm chỉ từ khi vua Trần Nhân Tông đến Yên Tử tu hành. Từ đó, cảnh sắc thiên nhiên ngoạn mục hoà quyện với chùa, am, tháp cổ kính của Yên Tử, vừa như chốn thần tiên, vừa lại gần gũi, gắn bó với con người. [...]
Sơ đồ khu di tích Yên Tử, in trong Cõi thiêng Yên Tử
(Theo Thi Sảnh, Cõi thiêng Yên Tử, Sở Văn hoá - Thông tin Quảng Ninh, 2002, tr. 11-15)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Văn bản Yên Tử, núi thiêng là một văn bản có nội dung giới thiệu về danh lam thắng cảnh Yên Tử, qua đó giúp cho chúng ta không chỉ có được những cơ bản về Yên Tử, mà còn khiến cho chúng ta vẻ đẹp núi rừng mà tạo hóa ban cho Yên Tử; đồng thời cũng thêm công lao tạo tác của những thế hệ đi trước, khi tạo nên một danh lam thắng cảnh , tuyệt vời như Yên Tử.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- [âm nhạc]
- cô Chào tất cả các em Chào mừng các em
- đã đến với khóa học Ngư văn 9 bộ sách
- kết nối tri thức Với cuộc sống của
- olm các em thân mến trong buổi học ngày
- hôm nay cô chò chúng mình sẽ cùng nhau
- tìm hiểu những nội dung còn lại của văn
- bản Yên Tử núi thiêng
- nhé chúng mình đến với phần tìm hiểu chi
- tiết hai nhỏ Tìm hiểu về cấu trúc và vẻ
- đẹp của cảnh quan Yên
- Tử Theo em cấu trúc của Yên Tử bao gồm
- những phần
- nào đúng rồi cấu trúc của Yên Tử được
- tác giả chia tách thành hai phần phần
- thứ nhất là con đường từ lá thắp đến Yên
- Tử và phần thứ hai chính là cảnh sắc của
- Yên Tử chúng mình cùng tìm hiểu phần đầu
- tiên con đường từ lán Tháp đến Yên
- Tử con đường từ lán Tháp đến Yên Tử Dài
- 9 km được B bọc bởi một không gian thơm
- mộng và chữ tình đi giữa lòng thung lũng
- dài và hẹp bị giới hạn bởi dãy núi cánh
- ga ở phía Nam cùng bảo đài ở phía bắc
- thoạt trông như những Thành quách cổ xưa
- trên quãng đường ấy còn có sự xuất hiện
- của những khu vườn XM xuê cây ăn quả như
- vải nhãn mận đào những mảnh ruộng mía
- thân tím Đằng tắc nối tiếp hai bên đường
- còn có suối Giải Oan trong veo chả ngoằn
- ngoèo trong thung lũng trên nền đá cuội
- và sỏi trắng cắt con đường đến Yên Tử
- Thành chín đoạn như chín con suối khác
- nhau chẳng nhưững vậy Cảnh giác nơi đây
- còn hiện lên Rực Rỡ Với những loài hoa
- như là hoa rành hoa bướm hải đường thủy
- tiên đang đuôi nhau khoe sắc phần thứ
- hai đó là về cảnh sác Yên Tử con đường
- dẫn vào Yên Tử đã thơ mộng chữ tình thì
- rừng núi Yên Tử lại càng dịu mát yên
- bình khi vào mùa xuân sau Tết Âm lịch
- rừng Yên Tử đơm hoa khí trời lại tươi
- mát đã khiến cho bao du khách thập
- phương nô nước Tìm Về đây mà chế
- hội theo em cảnh sác của Yên Tử được thể
- hiện qua những phương diện
- nào
- À đúng rồi đấy cảnh sác của Yên Tử được
- thể hiện thông qua tên gọi của nó và
- thông qua thơ ca trước hết là về tên gọi
- tự Ngàn Xưa của nó người xưa gọi Yên Tử
- là núi Voi Vì dáng núi giống hình con
- voi quay đầu về phía biển trong sử sách
- người ta lại gọi nó là Bạch Vân Sơn bởi
- quanh năm đỉnh núi chìm trong mấy trắng
- như vậy ngay từ cách đặt tên ta cũng
- thấy được những nét đặc trưng của Yên Tử
- về dáng hình về nét đặc trưng riêng gắn
- với khí hậu của vùng đất này Đồng thời
- ta cũng thấy được sự trân trọng yêu mến
- của người xưa dành cho Yên Tử Không
- những vậy Cảnh giác của Yên Tử còn được
- thể hiện thông qua thơ ca như trong thơ
- của Phạm Sư Mạnh lối đi Có Chúc khe suối
- có hoa qua câu thơ này ta thấy không
- gian thiên nhiên của Yên Tử thật sự rất
- tươi mát yên bình nó phủ khắp mọi ngóc
- ngách và phủ lên mọi Cảnh vật của nơi
- đây có lẽ chính cảnh giác thiên nhiên
- Thanh Bình Yên là trong sáng nay mà yên
- tử nổi danh trở thành ngọn núi thiêng là
- chốn thu hành tuyệt đỉnh dành cho những
- người mộ đạo nơi đây đã trở thành trốn
- tu hành cho những vị mộ đạo như là An kỳ
- sinh Phù Vân Quốc Sư vua Trần Nhân Tông
- đặc biệt là khi vua Trần Nhân Tông đến
- đây tu hành Cảnh Sách nơi đây lại vừa
- Huyền Diệu Trang Nghiêm vừa gần gũi gắn
- bó với con người về ý nghĩa của cảnh
- quan đổi với đời sống khu di tích Yên Tử
- đã trở thành một danh lam thắng cảnh tôn
- giáo nổi tiếng của Quảng Ninh cảnh sác
- thiên nhiên đặc biệt của Yên Tử không
- chỉ hiện lên với nét đẹp sơn thủy hữu
- tình Trang Nghiêm u tịch mà cảnh sác ấy
- còn tạo điều kiện cho sự ra đời của
- Thiền phái trúc lâm một tông phái của
- Thiền Tông Việt Nam do vua Trần Nhân
- Tông sáng lập vị sư tổ ấy luôn trăn trở
- về ý nghĩ và mong muốn lo cho dân có
- được đời sống tốt đẹp giáo hóa đạo đức
- cho dân tập trung vào việc bồi dưỡng
- tinh thần và hành động cao cả Đó là hiến
- dâng bản thân mình vì lợi ích của dân
- tộc của đất nước những tư tưởng đó góp
- phần làm cho những giá trị về văn hóa
- đạo đức truyền thống của dân tộc ta càng
- thêm sâu sắc và lan tỏa qua các thế hệ
- con rồng cháu
- tiên chúng mình cùng đến với phần ba nhỏ
- Tìm hiểu về cách trình bày thông tin
- trong văn bản Em có nhận xét gì với cách
- trình bày thông tin trong văn bản của
- tác
- giả đúng rồi chúng ta có thể nhận thấy
- cách trình bày thông tin của tác giả rất
- cụ thể rõ ràng mạch lạc khi đi từ cái
- nhìn tổng quan đến miêu tả cụ thể các bộ
- phận hợp thành của đối tượng giới thiệu
- về Yên Tử tác giả dẫn dắt người đọc đi
- theo con đường từ lán Tháp đến Yên Tử Để
- người đọc thấy được một cái nhìn bao
- quát về Yên Tử về không gian bao trùm
- lên vùng núi thiêng này đến khi đi sâu
- và thuyết minh về Yên Tử tác giả lại đi
- Theo Dòng Lịch sử hình thành của Yên Tử
- từ lúc Yên Tử có tên là núi Voi cho đến
- lúc vua Trần Nhân Tông đến Yên Tử tu
- hành qua mỗi một mốc thời gian Yên Tử
- lại có thêm một nét đổi thay ban đầu
- người tu hành đến đây dựng chùa mái
- tranh vách nứa An kỳ sinh đến tu hành
- lại lập ra AM dược am hoa và am thung
- khi đạo Phật phát triển cực Thịnh thông
- thền cư sĩ đến tu hành thì chùa Phù Vân
- cũng được xây dựng rồi đến khi vua Trần
- Nhân Tông tới tu hành chùa triền am tháp
- cổ kính Nơi Đây mới thực sự hóa quyện
- với thiên nhiên Yên Tử bên cạnh cách
- Trinh bày thông tin rất mạch lạc này tác
- giả còn kết hợp với việc sử dụng phương
- tiện phi ngôn ngữ Em hãy xác định phương
- tiện phi ngôn ngữ được tác giả sử dụng
- trong văn bản này
- nhé Rất chính xác đó chính là sơ đồ khu
- di tích ích Yên Tử được in trong cõi
- thương Yên Tử có tác dụng giúp cho việc
- thể hiện nội dung của bài viết thêm cụ
- thể rõ ràng đồng thời cũng giúp cho bạn
- đọc có được một cái nhìn tổng quan toàn
- cảnh về danh lam thắng cảnh Yên Tử có
- thể thấy cách dẫn dắt cách trình bày
- thông tin của tác giả vô cùng độc đáo và
- hấp dẫn nó không những Không khiến cho
- bạn đọc bị choáng ngợp bởi những thông
- tin được đưa ra mà dường như bạn đọc
- cũng bị cốn hút vào thế giới thanh bình
- giản dị mà hòa hợp với tự nhiên của Yên
- Tử chúng mình cùng đến đến với phần ba
- la mã tổng kết về nội dung theo em nội
- dung của văn bản này là
- gì rất tốt yên tử núi thiêng là một văn
- bản thuyết minh có nội dung giới thiệu
- về danh lam thắng cảnh Yên Tử qua đó
- giúp cho chúng ta không chỉ có được
- những hiểu biết cơ bản về Yên Tử mà còn
- khiến cho chúng ta thêm yêu vẻ đẹp của
- núi rừng mà tạo hóa đã ban cho nơi đây
- đồng thời cũng thêm trân trọng công lao
- tạo tác của những thế hệ đi trước khi
- tạo nên một danh lam thắng cảnh kỳ vĩ và
- tuyệt vời như Yên Tử
- còn về nghệ thuật tác phẩm này có một số
- nét đặc sắc về nghệ thuật như là cách
- trình bày thông tin mạch lạc rõ ràng dễ
- hiểu rồi là kết hợp với sử dụng phương
- tiện phi ngôn ngữ các em thân mến nội
- dung này cũng đã kết thúc bài học Yên Tử
- núi thiêng Cảm ơn các em đã quan tâm và
- theo dõi hẹn gặp lại các em trong những
- bài học lần
- sau I
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây