Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Video 1 SVIP
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
NAM QUỐC SƠN HÀ
(SÔNG NÚI NƯỚC NAM)
I. Giới thiệu chung
1. Tác giả:
- Chưa rõ tác giả là ai.
+ Lí Thường Kiệt.
+ Vô thanh thị (không họ không tên)
2. Tác phẩm
- Đánh giá: bài thơ “thần”
- Xuất xứ: “bài thơ ra đời gắn liền với cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc và gắn với yếu tố thần linh”.
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ ra đời trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược ở đời Lí (thế kỉ XI)
- Sự ra đời gắn với truyền thuyết: bài thơ được ngâm vang trong đêm tối ở đền thơ Truong Hống, Trương Hát trên sông Như Nguyệt nên được gọi là bài thơ thần.
- Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt:
+ 4 câu, mỗi câu 7 chữ.
+ Câu 1,2,4 vần với nhau ở tiếng cuối.
- Bố cục: 2 phần
+ Hai câu đầu: khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở cương vực lãnh thổ và chủ quyền.
+ Hai câu sau: khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân ta.
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát - hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Bài thơ Sông núi nước Nam gắn với cuộc kháng chiến nào?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Bài Nam quốc sơn hà được làm theo thể thơ nào?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Bài thơ có thể chia bố cục thành mấy phần?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Vì sao 'Nam quốc sơn hà' được coi là bài thơ Thần?
"Nam quốc sơn hà" được coi là bài thơ Thần vì sự ra đời của bài thơ gắn với truyền thuyết: Bài thơ được ngâm vang lên trong đêm tối ở Trương Hống, Trương Hát trên sông .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- Anh cũng rất vui được chào đón các bạn
- quay trở lại khóa học Ngữ Văn lớp 7 của
- trang web owners trường Đại học Sư phạm
- Hà Nội các bạn thân mến nối tiếp chương
- trình Ngữ văn lớp 7 chúng ta hết lại văn
- học dân gian để đến với một bài thơ ra
- đời trong giai đoạn lịch sử của dân tộc
- đã thoát khỏi ách đô hộ ngàn năm của
- phong kiến phương Bắc đang trên đường
- bảo vệ Củng cố xây dựng một quốc gia tự
- chủ rất mực hào hùng đặc biệt là trong
- trường hợp có giặc ngoại xâm chúng ta
- vào tìm hiểu bài thơ Nam Quốc Sơn Hà
- dịch ra thành sông núi nước Nam phần thứ
- nhất của chúng mình sẽ cùng xác định mục
- tiêu của bài học với bài thơ này chúng
- ta có 2 mục tiêu đó là cảm nhận được
- tinh thần độc lập Khí Phách hào hùng của
- dân tộc đồng thời các bạn cũ
- Tìm hiểu về thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
- đầu tiên chúng ta tìm hiểu chung về vấn
- đề tác giả và tác phẩm nói về vấn đề tác
- giả của bài thơ này Trước hết chúng ta
- cần phải khẳng định chúng ta chưa xác
- định được rõ tác giả của bài thơ Nam
- Quốc Sơn Hà là ai trên sách báo và ngoài
- xã hội cũng như trong nhà trường từ lâu
- vẫn ghi là tác giả Lý Thường Kiệt và như
- thế là bài thơ ra đời trong cuộc kháng
- chiến chống giặc bóng xâm lược ở thời
- nhà Lý thế nhưng lại có một số nghiên
- cứu chỉ ra rằng bài thơ không phải của
- Lý Thường Kiệt mà là vô than thị không
- họ không tên vì tình hình Tra cứu còn
- rất nhiều văn bản Hán Nôm xưa có in bài
- thơ này thì lại không có một văn bản nào
- ghi tên là tác giả Lý Thường Kiệt tình
- hình học thật được đặt danh
- thế cho nên chúng ta thấy bịp Nghiên cứu
- khảo cứu vấn đề tác giả rất đáng trân
- trọng Tuy nhiên cần phải có thêm một
- thời gian nữa mới xác định được rõ tác
- giả của bài thơ là ai vấn đề thứ hai
- chúng ta tìm hiểu đó là vấn đề về tác
- phẩm trước hết chúng ta có một đánh giá
- chung về bài thơ này Bài thơ được vọng
- ra từ một đền thờ linh thiêng có tác
- dụng khích lệ quân dân ta quyết tâm
- chiến đấu chống giặc nên người đời gọi
- Đây là bài thơ thần về xuất xứ bài thơ
- Sông Núi Nước Nam có các tài liệu ghi
- chép khác nhau về xuất xứ của nó nhưng
- có một điểm chung Đó là bài thơ ra đời
- gắn liền với cuộc kháng chiến chống
- ngoại xâm của dân tộc và gắn với yếu tố
- thần linh nói về xuất xứ này theo sách
- Lĩnh Nam chích quái bài thơ xuất hiện
- trong cuộc
- những tấm mút của Lê Đại Hành tức vua Lê
- Hoàn vào năm 981 khi giặc đến sông đại
- than ở gần sông Cầu và sông thương lấy
- lại hàng được mộng báo của thần Trương
- Hồng và Trương hát xin nguyện cùng nhà
- vua đánh giặc để cứu sinh linh canh ba
- đêm hôm sau trời tối đen mưa to gió lớn
- 2 đạo âm minh áo trắng áo đỏ xông vào
- trại giặt mà đánh quân tấm kinh hoàng
- thần Nhân Tàng Hình ở trên không lớn
- tiếng Ngâm bài thơ Con Tấm nghe thấy xíu
- đạp lên nhau mà chạy Đó là theo sách
- Lĩnh Nam chích quái còn theo Đại Việt Sử
- Ký Toàn Thư lại viết vào năm 1077 nhà
- Tống xâm lược nước ta Vì Nhân Tâm sai
- Thái Úy Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh
- đến sông Như Nguyệt tức là sông Cầu đã
- đánh tan được quân Tống lý
- vị trí lực lượng làm hàng rào theo dọc
- sông để cố thủ một đêm Quân sĩ trượt
- ngay trong nền chương Tướng Quân tức
- trường Hồng và Trương hát có tiếng đọc
- to bài thơ này sau đó quả nhiên Quân
- bóng thất bại sách sử còn ghi chép đó là
- ở trong sách chương tôn thần sự tích thì
- bài thơ này đã được thần sông Như Nguyệt
- đọc lên hai lần để giúp quân ta đánh
- đuổi quân giặc ngoại xâm 1 lần là giúp
- Lê Hoàn vào năm 981 và lần Còn lại giúp
- Lý Thường Kiệt vào năm 1077 gạch từ xuất
- xứ của bài thơ như đã nêu có người đề
- nghị tác giả của sông núi nước Nam nên
- để khuyết danh và cũng có tài liệu vẫn
- khi bài thơ tuyên truyền là của Lý
- Thường Kiệt Đó là vấn đề xuất xứ còn nói
- về hoàn cảnh sáng tác
- thế này với tất cả những xuất xứ và
- chúng ta vừa được tìm hiểu Có thể khẳng
- định bài thơ ra đời trong cuộc kháng
- chiến chống Tống xâm lược vào thời Lý ở
- thế kỷ 11 Cuối cùng chúng ta nhắc mến
- tác phẩm ở vấn đề sự ra đời của tác phẩm
- này gắn với truyền thuyết Đó là truyền
- thuyết bài thơ được Lâm đang lên trong
- đêm tối ở đền thờ Trương Hồng Trương hát
- trên sông Như Nguyệt vì vậy bài thơ này
- được gọi là bài thơ thần khẳng định bài
- thơ là bài thơ thần điều này có hai ý
- nghĩa ý nghĩa thứ nhất đã thương Minh
- Hóa Cần một tác phẩm văn học qua đó thể
- hiện sự trân trọng của nhân dân đối với
- nội dung tư tưởng của bài thơ lâm thời
- khi khẳng định năm quốc sơn hà là một
- bài thơ thần cũng đã thể hiện sức sống
- lâu bền của bài thơ trong mọi thế hệ
- người đọc
- ở những nút tìm hiểu như vậy cùng với
- mặt trong chú thích ở sách giáo khoa các
- bạn trả lời giúp tôi câu hỏi bài thơ Nam
- Quốc Sơn Hà gắn với cuộc kháng chiến nào
- anh một lần nữa chúng ta cùng khẳng định
- bài thơ bài thơ gắn với cuộc chiến đấu
- chống quân Tống xâm lược của đời nhà Lý
- vào thế kỷ 11 và bài thơ như sau khách
- sạn Quan sát hình ảnh bên trái là bài
- thơ được viết bằng chữ Hán
- so với nguyên tác được dịch sang tiếng
- Việt như sau
- ở Nam quốc sơn hà nam đế cư Tiệt nhiên
- định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ
- lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại
- hư với nguyên tác bài thơ phần chữ Hán
- các bạn xác định cho cô bài thơ này được
- viết theo thể thơ nào
- Anh có cảm ơn các bạn chúng ta có thể
- khẳng định bài thơ được viết theo thể
- thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật thì
- thế này với đặc điểm gồm có 4 câu mỗi
- câu có 7 chữ và trong bài thơ có câu 1
- câu 2 và câu 4 vần với nhau ở tiếng quấy
- cụ thể ở bài thơ này các tiếng vần với
- nhau đó là đế cư thiên thư và đại hư
- tiếp theo chúng ta xác định bố cục của
- bài thơ một lần nữa các bạn dành thời
- gian quan sát lại bài thơ và xác định
- giúp cô bài thơ có thể chia bố cục là
- mấy phần với 4 câu thơ ngắn gọn chúng ta
- có thể thấy bài thơ được chia bố cục
- thành hai phần phần thứ nhất gồm hai câu
- thơ đầu đã khẳng định được độc lập dân
- tộc trên cơ sở
- ở Thổ và chủ quyền phần thứ hai là hai
- câu thơ còn lại khẳng định quyết tâm bảo
- vệ độc lập dân tộc của nhân dân ta như
- vậy Ở video này có cho chúng ta đã cùng
- tìm hiểu chân những nét khái quát về tác
- giả và tác phẩm của bài thơ Nam quốc sơn
- hà để củng cố kiến thức của phần thứ
- nhất này của mời các bạn cùng tương tác
- với đó là mờ trong câu hỏi sau đây nhiệm
- vụ này rất đơn giản đúng không nào o rất
- nhanh chóng câu cho chúng ta đã tìm hiểu
- xong phần tìm hiểu chung của bài thơ Nam
- Quốc Sơn Hà bài giảng của chúng ta đến
- đây là kết thúc cô cảm ơn các bạn đã chú
- ý theo dõi Hẹn gặp lại tất cả chúng ta
- trong bài giảng tiếp theo để tìm hiểu
- chi tiết bài thơ này
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây