Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Tự luận SVIP
I. Đọc hiểu
Câu 9. Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn sau và nêu tác dụng.
"Vợ chồng hồi hộp trông những bông hoa đầu tiên hé nở, rồi hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con."
Câu 10. Bằng một đoạn văn (5 - 7 câu), em hãy nêu suy nghĩ và hành động mà mỗi người cần có trước nghịch cảnh.
Bài đọc:Sự tích quả dưa hấu
Thuở xưa, thời vua Hùng Vương, nước ta có núi cao, sông rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng ruộng thưa thớt, hoa quả chưa có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là Mai An Tiêm. Chàng có tài tháo vát và có trí hơn người.
Vua yêu mến Mai An Tiêm nên thường ban cho của ngon vật quý. Thói thường, các quan được một chút lộc vua thì nâng niu ca tụng; riêng An Tiêm bảo: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ!" và xem thường các thứ ấy. Việc đến tai vua, vua giận lắm, bảo: "Đã thế ta cho nó cứ trông vào tài sức của nó xem có chết rũ xương ra không?".
Thế là một buổi sớm, tự nhiên An Tiêm thấy lính đến giải cả chàng lẫn vợ con xuống thuyền, chẳng cho mang theo gì hết. Chàng nói mãi chúng mới cho đem một cái gươm cùn hộ thân. Buồm căng gió, thuyền tròng trành nhằm biển khơi thẳng tiến. Bãi cát trắng, vệt cây xanh trong bờ lần lượt khuất đi, dấu vết của dân cư cũng không còn nữa, bây giờ chỉ thấy trời với nước xanh ngắt một màu.
Hôm sau thuyền đến một đảo nhỏ. Họ để gia đình An Tiêm lên bờ với năm ngày lương thực, một chiếc nồi, rồi nhổ neo quay lái. Nàng Ba, vợ An Tiêm, bế con nhìn theo chiếc thuyền dần dần ra xa rồi khuất mất, nước mắt nhỏ như mưa.
An Tiêm dắt vợ con tìm được một cái hốc đá ở tạm. Rồi chàng cắp gươm đi thăm dò. Hòn đảo quả thật hoang vu, chỉ có ít cây cỏ lơ thơ và mấy loài chim biển. Tìm mãi mới thấy vài thứ quả chát chua và rau dại ăn tạm cho đỡ đói. Từ đấy, ngày ngày An Tiêm trồng rau và tìm quả, nàng Ba thì ra bờ biển mò con ngao, cái hến. Đứa con lớn của An Tiêm bắt chước cha cũng cặm cụi làm bẫy đánh chim.
Nhưng rồi chim dần dần quen bẫy, có khi suốt ngày thằng bé không bắt được gì. Cá nhiều nhưng không lưới, quả thì có mùa. Nên thức ăn chính của vợ chồng con cái An Tiêm vẫn là mấy thứ rau dại mà chàng trồng thành rau vườn. Cuộc đời của bốn người vô cùng lao đao, vất vả, chẳng khác giống chim muông là bao. Tuy vậy, An Tiêm vẫn tin rằng một ngày kia, mình có thể làm cho đời sống khá lên.
Một hôm có con chim đương ăn ngoài bãi thấy An Tiêm đến, vội bay đi, bỏ lại một miếng mồi đo đỏ. An Tiêm cầm lên xem thì là một mảnh quả bằng hai ngón tay. Chàng nghĩ thầm: "Chim ăn được có lẽ người cũng ăn được". Chàng bèn ăn thử thì thấy có vị ngọt và nhặt hạt gói lại. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột, đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảnh đất mà gieo hạt xuống.
Ít ngày sau, mấy hạt đã mọc mầm đâm lá, bò tỏa ra khắp khoảnh đất. Nàng Ba cũng giúp chồng sớm chiều săn sóc dây của quả lạ. Vợ chồng hồi hộp trông những bông hoa đầu tiên hé nở, rồi hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con. Thấy nó lớn mãi như không bao giờ thôi, An Tiêm cũng không biết lúc nào nên hái.
Một buổi sớm tinh mơ, nghe tiếng quạ kêu ngoài bãi, nàng Ba bảo chồng:
– Ở đây hoang vắng, quạ không tụ họp bao giờ, nay chúng kêu inh ỏi một nơi, tất là có sự lạ. Chàng ra xem thế nào!
An Tiêm ra đến bãi thì đàn quạ bay đi bỏ lại quả chúng vừa mổ thủng vài chỗ. Chàng cắt quả về. Khi chàng bổ ra, cả nhà lóa mắt vì màu đỏ tươi của ruột quả. Đây đó giữa màu đỏ, có những hạt đen như hạt huyền. Hai đứa bé thèm nhỏ nước dãi, nàng Ba thì cứ tấm tắc khen quả trông ngon mắt.
An Tiêm cẩn thận cắt cho mỗi người một mảnh nhỏ ăn thử. Bốn người như một, khen ngợi cái vị thanh ngọt, cái mùi thơm nhẹ nhàng của quả lạ, ăn vào không những không xót ruột mà còn thấy đỡ khát và khỏe người ra. Đến trưa, An Tiêm mạnh dạn bổ hết quả cho con ăn đến no.
Bấy giờ cả nhà An Tiêm mừng rỡ, bồng bế nhau ra bãi, chọn những quả sẫm màu đem về, còn lại thì thay phiên nhau canh quả. Và từ đấy, họ trồng thêm quả. Tất cả nông cụ chỉ gồm có một cái gươm cùn và mấy hòn đá mài bén. Vì vậy, thêm một gốc quả là thêm không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Nhưng họ chăm sóc hết lòng, nhờ vậy, giống quả càng ngày càng sai, càng to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm ngọt.
Cứ mỗi lần hái quả, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Quả trôi biệt tăm không biết bao lần, trăng non rồi trăng già không biết bao bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống quả quý để đổi về đem bán trên đất liền. Từ đấy An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà lá.
Về phần vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, vua yên trí rằng An Tiêm đã chết, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm.
An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm, truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón. Đó là nguồn gốc giống dưa hấu mà chúng ta ăn ngày nay.
Về sau khắp nước ta đều có giống dưa hấu. Nhưng người ta nói chỉ có huyện Nga Sơn là trồng được những quả ngon hơn cả, vì nơi ấy xưa là hòn đảo An Tiêm ở, trải qua mấy nghìn năm nước cạn, cát bồi nay đã liền vào với đất.
(Sưu tầm)
Hướng dẫn giải:
Câu 9.
- Biện pháp tu từ so sánh: "hoa kết quả" - "ngón tay út", "con chuột", "con lợn con".
- Tác dụng:
+ Làm câu văn hay, sinh động, gợi hình, gợi cảm.
+ Cho thấy sự phát triển của quả lạ và công sức chăm bón quả của vợ chồng Mai An Tiêm.
Câu 10.
* Đảm bảo hình thức của một đoạn văn với dung lượng 5 - 7 câu.
* Xác định đúng vấn đề: Suy nghĩ và hành động mỗi người cần có trước nghịch cảnh.
* Triển khai hợp lí nội dung đoạn văn:
- Giải thích: Nghịch cảnh được hiểu là hoàn cảnh khó khăn khiến con người dễ chán nản, đau khổ, thậm chí là tuyệt vọng.
- Nêu suy nghĩ, thái độ và hành động mỗi người cần có:
+ Cần tích cực và luôn tin tưởng vào điều tốt đẹp sẽ đến.
+ Luôn chăm chỉ, nỗ lực làm việc.
+ Dám thử thách với những điều mới mẻ.
+ Luôn đoàn kết, đồng sức, đồng lòng,...
* Chính tả: Dùng từ, đặt câu, đảm bảo chuẩn ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt.
(GV cần linh hoạt khi chấm; trân trọng những ý kiến, phát hiện đúng của học sinh).
II. Làm văn (4 điểm)
Viết bài văn thuyết minh thuật lại sự kiện (một sinh hoạt văn hóa) mà em trực tiếp tham gia hoặc tìm hiểu, quan sát qua các phương tiện thông tin.
Hướng dẫn giải:
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn thuyết minh: Mở bài, thân bài, kết bài.
b. Xác định đúng yêu cầu của đề: Thuyết minh thuật lại một sự kiện (một sinh hoạt văn hóa).
c. Đảm bảo các yêu cầu đối với kiểu bài:
- Mở bài: Giới thiệu sự kiện (không gian, thời gian, mục đích tổ chức sự kiện).
- Thân bài: Tóm tắt diễn biến của sự kiện theo trình tự thời gian.
+ Những nhân vật tham gia sự kiện.
+ Các hoạt động chính trong sự kiện; đặc điểm, diễn biến của từng hoạt động.
+ Hoạt động để lại ấn tượng sâu sắc nhất.
- Kết bài: Nêu ý nghĩa của sự kiện và cảm nghĩ của bản thân.
d. Chính tả, ngữ pháp: Dùng từ, đặt câu, đảm bảo chuẩn ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt.
e. Sáng tạo: Sử dụng hình ảnh, từ ngữ, biện pháp tu từ độc đáo; lời văn sinh động, gợi cảm, sáng tạo.
* Lưu ý:
- Chọn ngôi tường thuật phù hợp, thống nhất.
- Thuyết minh về sự kiện một cách chi tiết và có trình tự.
- Cần biểu lộ cảm xúc, đánh giá về sự kiện một cách ngắn gọn.
- Tránh sa vào bài văn kể chuyện.
(GV cần linh hoạt khi chấm; trân trọng những ý kiến, phát hiện đúng của học sinh).