Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Tiếng đàn giải oan SVIP
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Dòng nào nêu đúng xuất xứ của văn bản Tiếng đàn giải oan?
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Văn bản Tiếng đàn giải oan thuộc thể loại nào?
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Truyện thơ Nôm nào có cùng thể loại với truyện thơ Thạch Sanh? (Chọn 2 đáp án)
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Cốt truyện của truyện thơ Nôm Thạch Sanh tuân theo mô hình nào?
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Xác định thể thơ của văn bản.
Giải nghĩa những từ sau.
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Sắp xếp các nội dung sau sao cho đúng với trình tự văn bản.
- Công chúa nghe tiếng đàn thì hết câm và kể lại sự việc cho vua cha.
- Thạch Sanh gảy đàn để giãi bày nỗi lòng.
- Thạch Sanh bị nhốt vào ngục và biết Lý Thông hại mình.
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Nhân vật nào không trực tiếp xuất hiện trong văn bản?
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Lời của quân lính trong đoạn trích là (Chọn 2 đáp án)
Bấm chọn dòng thơ sử dụng lời dẫn gián tiếp.
Sanh từ đến ở ngục u
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Dòng nào nêu đúng đặc sắc về ngôn ngữ của văn bản?
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Dòng thơ nào không sử dụng điển tích, điển cố? (Chọn 2 đáp án)
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Phân loại để làm rõ đặc điểm của nhân vật Thạch Sanh trong truyện cổ tích và trong văn bản.
- Không chú trọng đời sống nội tâm.
- Gắn với đời sống nội tâm.
- Gắn liền phần lớn với hành động.
- Có diễn biến tâm lí cụ thể.
Truyện cổ tích:
Tiếng đàn giản oan:
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Con người Lý Thông hiện lên thế nào qua văn bản?
TIẾNG ĐÀN GIẢI OAN1
Truyện thơ Nôm khuyết danh
[...]
Sanh từ đến ở ngục u2
Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai.
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi
Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?
Quân rằng: "Quốc tế quận công3,
Chính danh tên gọi Lý Thông thực người".
Sanh nghe quân nói đầu đuôi,
Biết rằng Thông thực là người bất nhân.
Biết mà lòng chẳng oán hờn,
Mặc ai vô nghĩa bất nhân cũng đành.
Biết mà lòng chẳng phàn nàn,
Lấy đàn mới gảy nhặt khoan tính tình.
Đàn kêu nghe tiếng nên xinh
Đàn kêu tang tịch tình tinh tang tình.
Đàn kêu: Ai chém chằn tinh,
Cho mày vinh hiển dữ4 mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương,
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỏi Lý Thông mày,
Có sao phụ nghĩa lại rày vong ân.
Đàn kêu sao ở bất nhơn,
Biết ăn quả lại quên ơn người giồng!
Đàn kêu: năn nỉ trong lòng,
Tiếng tơ tiếng trúc đều cùng như du5?
Đàn kêu: Trách Hán, quên Hồ6
Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề7!,
Đàn kêu thấu đến cung phi,
Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa8!
Nàng đương rầu rĩ mặt hoa,
Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân,
Khác nào như cỏ phùng xuân9?
Cười cười, nói nói trước sân trình bày.
Rằng: "Đàn ai gảy đâu đây?
Xin cha đòi lại ngày rày cho tôi".
Viện vương10 nghe nói phút cười,
Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.
Rằng: "Từ phải nạn đến nay,
Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?
Làm cho chúa xót lòng cha,
Cầu trời khấn Phật, kể đà hết hơi.
Hay là nghe tiếng đàn người,
Thì con phải nói khúc nhôi11 cha tường",
Nàng nghe bày tỏ mọi đường,
Rằng: "Người đàn ấy thực chàng cứu tôi.
Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Rằng về loan phượng12 kết đôi duyên vàng.
Lý Thông bạc ác phũ phàng,
Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.
Vì con lâu chẳng thấy chồng,
Trong lòng luống những giận lòng câm đi".
Nghe lời con nói một khi,
Lệnh truyền nội giám13 tức thì đòi ngay.
[...]
(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 10, Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn Quốc gia,
NXB Khoa học xã hội, 2000)
1 Trích Thạch Sanh. Nhan đề văn bản do nhóm biên soạn đặt.
2 U: tối.
3 Quốc tế quận công: tước phong của vua dành cho người có công.
4 Dữ: và, mà.
5 Du: rung động.
6 Trách Hán, quên Hồ: Hán là để cập đến triều đại nhà Hán, còn Hồ là dân tộc phương Bắc của Trung Quốc; câu này có nghĩa chỉ trích người đã quên đi đất nước của mình để theo đuổi lợi ích của nước khác, cũng ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
7 Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề: Tần, Sở, Ngô, Tề là các nước thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), có ân oán với nhau; câu này ám chỉ việc vong ân phụ nghĩa.
8 Sai ngoa: không thật, dối trá.
9 Phụng xuân: gặp mùa xuân.
10 Viện vương: vương giống như vua; ý chỉ vua cha của công chúa Quỳnh Nga.
11 Khúc nhôi: đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra.
12 Loan phượng: chim phượng mái (loan) và chim phượng trống (phượng); chỉ ý vợ chồng đẹp đôi.
13 Nội giám: quan hầu ở trong cung vua.
Qua văn bản, tác giả dân gian thể hiện thái độ nào? (Chọn 2 đáp án)
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây