Bài học cùng chủ đề
- Tri thức Ngữ văn
- Về hình tượng bà Tú trong bài Thương vợ
- Ý nghĩa văn chương
- Đọc kết nối chủ điểm: Thơ ca
- Đọc mở rộng theo thể loại: Tính đa nghĩa trong bài thơ Bánh trôi nước
- Thực hành tiếng Việt: Cách tham khảo, trích dẫn tài liệu để tránh đạo văn
- Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học
- Phiếu bài tập chủ đề 2
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Phiếu bài tập chủ đề 2 SVIP
Yêu cầu đăng nhập!
Bạn chưa đăng nhập. Hãy đăng nhập để làm bài thi tại đây!
Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:
“KHOẢNG TRỜI, HỐ BOM”
(Hòa Bình)
Lâm Thị Mỹ Dạ làm bài thơ Khoảng trời, hố bom tại Trường Sơn vào tháng 10 năm 1972, một trong những thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Trên dãy Trường Sơn, ngày nào cũng có sự hy sinh của bộ đội, thanh niên xung phong. Sự hy sinh của họ đã trở thành những biểu tượng tuyệt đẹp trong văn học. Bài thơ như câu chuyện kể về sự hi sinh dũng cảm của một cô gái mở đường: “Chuyện kể rằng em cô gái mở đường/ Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương/ Cho đoàn xe kịp giờ ra trận/ Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa/ Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom”. Chất tự sự khá đậm rõ: khi đơn vị hành quân qua con đường mòn, những chiến sĩ ra trận chỉ còn thấy hố bom và huyền tích về người con gái hi sinh. Giọng thơ không còn cứng cỏi, vang vang như trước nữa mà nó đã lắng xuống, trầm vọng như tiếng thở dài đầy thương cảm: “Em nằm dưới đất sâu”. Không thương cảm sao được khi biết rằng cô gái “nằm dưới đất sâu” giữa những hố bom nham nhở đang còn trẻ lắm; đấy là một trinh nữ anh hùng, một biểu tượng bất tử của tinh thần yêu nước Việt Nam: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.
Sự hy sinh của cô gái chính là thông điệp mà tác giả gửi gắm vào bài thơ bằng những so sánh và hình ảnh đẹp trong thi phẩm. "Em...” trở thành “khoảng trời đã nằm yên trong đất”. Đấy là một khoảng trời được tỏa sáng bởi tâm hồn người con gái nên đêm đêm “Những vì sao ngời chói, lung linh”. Ta hầu như không còn thấy nữa sự tan hoang, chết chóc nữa, mà vượt lên tất cả, bao trùm tất cả là vẻ đẹp bao la, vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước với sự hóa thân, dâng hiến của em: “Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong/ Đã hóa thành những vầng mây trắng?/ Và ban ngày khoảng trời ngập nắng/ Đi qua khoảng trời em - Vầng dương thao thức/ Hỡi mặt trời, hay chính trái tim em trong ngực...”. Ở đây có hai khoảng trời soi ngắm nhau; một khoảng trời “thật” trên cao có các vì sao, có mây trắng, có ánh nắng vầng dương và một khoảng trời “ảo” - “khoảng trời hố bom” - nằm trong đất có tâm hồn, thịt da, trái tim của người trinh nữ dũng cảm. Hai khoảng trời ấy đều đẹp đẽ, lung linh và vĩnh hằng trong sự liên tưởng đầy tài hoa của tác giả. Sự hy sinh của cô gái mở đường là những dâng hiến lưu lại vĩnh viễn trên mặt đất, non sông này: “Tên con đường là tên em gửi lại/ Cái chết em xanh khoảng-trời-con-gái".
Từ “khoảng trời hố bom” đến “khoảng trời con gái” là sự thăng hoa bất ngờ của cảm xúc và trí tuệ mà hình như trời đã “ban” cho Lâm Thị Mỹ Dạ. Cả bài thơ đều hay nhưng nếu được chọn câu hay nhất, tôi sẽ không ngần ngại đề xuất câu “Cái chết em xanh khoảng-trời-con-gái”. Chủ đề tư tưởng và thủ pháp nghệ thuật của bài thơ tập trung trọn vẹn trong câu thơ chỉ 8 âm tiết này.
Tuy nhiên, cái hay đạt độ tinh diệu của bài thơ không nằm ở đấy mà nó lung linh phát sáng bởi những so sánh, biểu tượng đầy nghệ thuật sau khúc dạo đầu trên. Những liên tưởng: “Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng/Những vì sao ngời chói lung linh”; những so sánh: “Em nằm dưới đất sâu/Như khoảng trời đã nằm yên trong đất”, nối tiếp nhau, bổ sung nhau, tôn vinh nhau làm nên vẻ đẹp và sức sống của bài thơ. Từ không đến có, từ hữu hạn đến vô hạn, từ cụ thể đến trừu tượng là điều tôi cảm nhận được ở hai câu kết: "Gương mặt em bạn bè tôi không biết/ Nên mỗi người có gương mặt em riêng".
Đọc lại "khoảng trời hố bom" sau hơn 40 năm tác phẩm ra đời, tôi càng thấm thía điều này: Thơ hay phải chứa trong nó những xúc cảm đầy đặn, những tư tưởng thời đại, gắn bó với Tổ quốc, với nhân dân và được biểu hiện bằng những hình ảnh độc đáo mang dấu ấn sáng tạo của tác giả. Cách tân đến đâu, mới lạ về hình thức đến mấy mà rời xa, thoát ly dân tộc thì chắc chắn sớm hay muộn nó sẽ bị lãng quên như một số trường hợp người làm thơ trong mấy chục năm qua.
(Theo cand.com.vn)
Theo tác giả, chất tự sự của bài thơ Khoảng trời, hố bom thể hiện qua yếu tố nào?
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là gì?
Đối tượng nghị luận của văn bản là gì?
Câu văn nào sau đây góp phần giới thiệu luận đề của văn bản?
Câu văn sau là yếu tố nào của văn bản?
Chất tự sự khá đậm rõ: khi đơn vị hành quân qua con đường mòn, những chiến sĩ ra trận chỉ còn thấy hố bom và huyền tích về người con gái hi sinh.
Trong bài viết, tác giả cho rằng câu thơ nào là hay nhất?
Nhan đề của bài viết giúp người đọc
Đoạn văn sau được viết theo kiểu nào?
Tuy nhiên, cái hay đạt độ tinh diệu của bài thơ không nằm ở đấy mà nó lung linh phát sáng bởi những so sánh, biểu tượng đầy nghệ thuật sau khúc dạo đầu trên. Những liên tưởng: “Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng/Những vì sao ngời chói lung linh”; những so sánh: “Em nằm dưới đất sâu/Như khoảng trời đã nằm yên trong đất”, nối tiếp nhau, bổ sung nhau, tôn vinh nhau làm nên vẻ đẹp và sức sống của bài thơ. Từ không đến có, từ hữu hạn đến vô hạn, từ cụ thể đến trừu tượng là điều tôi cảm nhận được ở hai câu kết: "Gương mặt em bạn bè tôi không biết/ Nên mỗi người có gương mặt em riêng".
Chọn 4 luận điểm trong văn bản.
Đoạn văn sau đây là bằng chứng khách quan hay ý kiến chủ quan của tác giả?
Ở đây có hai khoảng trời soi ngắm nhau; một khoảng trời “thật” trên cao có các vì sao, có mây trắng, có ánh nắng vầng dương và một khoảng trời “ảo” - “khoảng trời hố bom” - nằm trong đất có tâm hồn, thịt da, trái tim của người trinh nữ dũng cảm. Hai khoảng trời ấy đều đẹp đẽ, lung linh và vĩnh hằng trong sự liên tưởng đầy tài hoa của tác giả.
Trong đoạn đầu, tác giả đã sử dụng những cách đưa ra dẫn chứng nào?
Bài viết thuộc kiểu văn bản
Điền vào chỗ trống.
/.../ là hành vi sao chép lời nói, ý tưởng, quan điểm,... của người khác và coi nó như là của riêng mình.
Trong ngữ liệu sau, người viết đã lựa chọn cách trích dẫn trực tiếp hay gián tiếp?
Lã Nhâm Thìn rất tinh tường: “Hầu hết những hình tượng trong thơ Hồ Xuân Hương đều được sự gợi ý, trực tiếp hay gián tiếp, xa hay gần, mơ màng hay cụ thể, từ vẻ đẹp của thân thể người phụ nữ. Hồ Xuân Hương có dụng ý kiến tạo hình tượng theo thể hình tuyệt vời ấy".
Trong bài văn nghị luận, lí lẽ và dẫn chứng có nhiệm vụ gì?
Trong phần thân bài của bài văn nghị luận về một tác phẩm văn học, người viết cần
Phân tích một tác phẩm văn học thuộc kiểu bài văn
(a) Năm 2005, bài viết "Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện đại của Đào Tuấn Ảnh" (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8) đã chỉ rõ con đường du nhập lí thuyết hậu hiện đại trên thế giới ở Việt Nam, đặc trưng thẩm mỹ cũng như các khả năng vận dụng lý thuyết văn học nước nhà.
(b) Triệu Lam Châu nhấn mạnh các giá trị văn hóa Tây Nguyên luôn là đối tượng được ông chú trọng khai thác, phản ánh: "Đọc truyện, đọc thơ của Y Điêng, tôi thấy hiện lên biết bao là ánh núi. Ánh núi hiện lên từ tiếng cồng chiêng âm vang cả núi rừng và lòng người. Ánh núi long lanh hiện lên từ ánh mắt nao lòng của người con gái Ê Đê khi trao chiếc cong cho người yêu. Ánh núi hiện lên từ dòng Sông Hinh thẳm sâu huyền thoại buôn làng cùng những bản trường ca ngân nga suốt đêm thâu...".
Nối các ngữ liệu với cách trích dẫn phù hợp.
Trích dẫn dưới đây thiếu thông tin nào?
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên). NXB Đại học Quốc gia. 2000
Trích dẫn dưới đây có những thông tin nào?
Theo Lưu Khánh Thơ, Kì nữ Hồ Xuân Hương - Đời và thơ, http://ct.qdnd.vn, ngày 24/12/2021