Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam (Phần 2) SVIP
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
Bài giảng giúp học sinh:
- Tìm hiểu nghệ thuật nghị luận
- Khái quát nội dung và nghệ thuật
- Viết kết nối với đọc
NHÀ THƠ CỦA QUÊ HƯƠNG LÀNG CẢNH VIỆT NAM
(Xuân Diệu)
Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. […]
Được nhớ, thuộc, và truyền tụng, vì là ba bài thơ hay và điển hình nhất cho mùa thu của Việt Nam, ở miền Bắc nước ta, chứ không ở nước nào khác. Tiêu biểu hơn cả, là bài Thu điếu (Mùa thu ngồi câu cá):
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Đọc lên, như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết mùa thu; rất là đất nước nhà mình, có thật, rất sống, chứ không theo ước lệ như ở trong văn chương sách vở. Hàng vạn người đọc rất tinh, đã thuộc ba bài thu này, mà không thuộc được các bài thu khác (của các tác giả khác). […]
THU ẨM
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.
Không còn những ước lệ văn hoa sang trọng rèm châu, lầu ngọc, chén vàng… mà bình dân, nhà cỏ thấp le te, tiến lên hiện thực rồi. Bài thơ này, theo tôi, không phải chỉ nói trong một thời điểm, là trong một đêm trăng hạn định, mà là tổng hợp nhiều thời điểm, khái niệm, khái quát về cảnh thu. Nếu chỉ nói cảnh một đêm thu có trăng, thì bài thơ tù túng và thiếu lô-gíc. Câu thứ hai: Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe, phải là đêm sâu mới hay, mới ngõ thật tối, đóm mới lập lòe; còn “đêm khuya” (theo như có bản chép) thì là từ 12 giờ đêm trở đi, chẳng bao hàm ý gì là tối cả, chỉ bao hàm ý muộn và vắng, đêm khuya với đom đóm chẳng đi gì với nhau, vả lại còn phải nghiên cứu thử xem đom đóm có chờ đến khuya mới bay ra, mới bay nhiều hay không? Mà đã “ngõ tối đêm sâu” thì mâu thuẫn với Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Mặt khác, đưa Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt vào cảnh một đêm có trăng, thì không hợp, không điển hình gì cả. Trên mặt nước ao, mặt nước sông lặng, thì điển hình là Nước biếc trông như tầng khói phủ kia; khói nhạt phất phơ lưng giậu là điển hình cho buổi chiều quê, khói bếp nhà ai đã nấu cơm chiều, gặp hơi nước nhiều trong không khí thì lan dài là là quấn quýt lấy vừa tầm lưng giậu. Thơ chữ Hán của tác giả cũng có những câu:
Chồi liễu rủ lá xanh, có ánh mặt trời xuyên qua
Giậu tre um màu biếc, làn khói chiều bao phủ.
Mặt nữa, Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt chắc hẳn không phải là trời một đêm trăng, mà phải là trời một buổi chiều. Vì thế cho nên tôi hiểu bài này là khái quát, tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm. Nghĩ như thế rồi, chúng ta thấy bốn câu đi liền nhau (2, 3, 4, 5) về làng cảnh rất hay, nó hay trong cái thực của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, chứ không bay đi đâu xa khác. Nhất là câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt trước ao sáng lóe ra, bốn chữ l khá nặng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ánh bắn đi, từ loe với âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe), như cái ao chẳng hạn. Lịch sử văn học thế giới, qua mấy nghìn năm, đã biểu dương từng câu thơ một của các nhà thơ có tài. Một câu thơ của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc Việt Nam như thế, là một câu thơ hiếm có.
THU VỊNH
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khỏi phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Trong ba bài thơ, bài này mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của cảnh thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu. Trời thu rất xanh rất cao tỏa xuống cả cảnh vật. Cây tre Việt Nam ta, những cây còn non, ít lá, thanh mảnh cao vót như cái cần câu in lên trời biếc, gió đẩy đưa khe khẽ, thật là thanh đạm, hợp với hồn thu. Song thưa để mặc bóng trăng vào cũng thuộc về trời cao; Một tiếng trên không ngỗng nước nào cũng nói về trời cao, gợi sự xa xăm, gợi cái bâng khuâng về không gian. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái gợi cái bâng khuâng man mác về thời gian. Nước biếc trông như tầng khói phủ gợi niềm bay bổng nhẹ nhàng và mơ hồ như hư như thực. Cả khung cảnh mùa thu thanh thoát ấy dẫn đến ý hai cây kết: - Sao ta còn bị buộc chân ở đây, sa lầy trong vòng danh lợi ố bẩn phi nghĩa này? Sao ta chưa trả mũ từ quan quy khứ như Đào Uyên Minh, cho nhẹ nhõm trong sáng?
Bài Thu vịnh có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam (ở Bắc Bộ). Có về thăm “Vườn Bùi chốn cũ” – đây là “xứ Vườn Bùi” theo đồng bào gọi cả vùng Trung Lương nằm trong xã Yên Đổ cũ, chứ không phải chỉ là khu vườn của nhà cụ Nguyễn Khuyến – mới càng hiểu rõ bài Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Sao lắm ao thế! Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Sóng biếc gợn rất nhẹ, một chiếc lá vàng rụng theo gió, bay bay xoay xoay rồi rơi xuống xa xa một cách khẽ khàng. Khung ao tuy hẹp vậy, nhưng làng cảnh cũng không thiếu không gian. Nhìn lên: trời thu xanh cao đám mây đọng lơ lửng; trông quanh: các lối đi trong làng hai bên tre biếc mọc sầm uất, chạy ngoắt ngoẻo cho đến lúc tưởng như tre đã kín lại; mọi người ra đồng làm, cho nên làng vắng teo. Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài […] không thể tóm tắt thơ được, mà phải đọc lại. Cái thú vị của bài Thu điếu là ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi; ở những cử động: chiếc thuyền con lâu lâu mới nhích, sóng gợn tí, lá đưa vèo, tầng mây lửng, ngõ trúc quanh, chiếc cần buông, con cá động; ở các vần thơ: không phải chỉ giỏi vì là những tử vận hiểm hóc, mà chính hay vì kết hợp với từ, với nghĩa chữ, đến một cách thoải mái đúng chỗ, do một nhà nghệ sĩ cao tay; cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3 – 4:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
đối với:
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
thật tài tình; nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, để tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: tí.
Quá trình ngôn ngữ của thơ đi từ thời Lê Hồng Đức, thật hãy còn vất vả nặng nề:
Trời muôn trượng thẳm làu làu sạch,
đến Nguyễn Khuyến đã thành ra:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
thật trong sáng nhẹ nhàng, như không một trở lực nào níu được sự diễn đạt nữa. Thế mới biết những câu thơ thoải mái tự nhiên là kết quả của một sự khổ luyện, khổ luyện qua những thời đại, hoặc là khổ luyện trong một người. Các bạn mới làm thơ nên khái niệm cho được thế nào là sự “đắc đạo” trong nghệ thuật ngôn ngữ.
Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, nhìn gộp chung lại, là thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hóa nội dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam, trên đất nước ta, và dân tộc hóa hình thức lời thơ, câu thơ cho thật là Nôm, là Việt Nam.
(Theo Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1982, tr. 174 – 185)
Vai trò của các luận điểm có trong văn bản là gì?
NHÀ THƠ CỦA QUÊ HƯƠNG LÀNG CẢNH VIỆT NAM
(Xuân Diệu)
Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. […]
Được nhớ, thuộc, và truyền tụng, vì là ba bài thơ hay và điển hình nhất cho mùa thu của Việt Nam, ở miền Bắc nước ta, chứ không ở nước nào khác. Tiêu biểu hơn cả, là bài Thu điếu (Mùa thu ngồi câu cá):
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Đọc lên, như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết mùa thu; rất là đất nước nhà mình, có thật, rất sống, chứ không theo ước lệ như ở trong văn chương sách vở. Hàng vạn người đọc rất tinh, đã thuộc ba bài thu này, mà không thuộc được các bài thu khác (của các tác giả khác). […]
THU ẨM
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.
Không còn những ước lệ văn hoa sang trọng rèm châu, lầu ngọc, chén vàng… mà bình dân, nhà cỏ thấp le te, tiến lên hiện thực rồi. Bài thơ này, theo tôi, không phải chỉ nói trong một thời điểm, là trong một đêm trăng hạn định, mà là tổng hợp nhiều thời điểm, khái niệm, khái quát về cảnh thu. Nếu chỉ nói cảnh một đêm thu có trăng, thì bài thơ tù túng và thiếu lô-gíc. Câu thứ hai: Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe, phải là đêm sâu mới hay, mới ngõ thật tối, đóm mới lập lòe; còn “đêm khuya” (theo như có bản chép) thì là từ 12 giờ đêm trở đi, chẳng bao hàm ý gì là tối cả, chỉ bao hàm ý muộn và vắng, đêm khuya với đom đóm chẳng đi gì với nhau, vả lại còn phải nghiên cứu thử xem đom đóm có chờ đến khuya mới bay ra, mới bay nhiều hay không? Mà đã “ngõ tối đêm sâu” thì mâu thuẫn với Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Mặt khác, đưa Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt vào cảnh một đêm có trăng, thì không hợp, không điển hình gì cả. Trên mặt nước ao, mặt nước sông lặng, thì điển hình là Nước biếc trông như tầng khói phủ kia; khói nhạt phất phơ lưng giậu là điển hình cho buổi chiều quê, khói bếp nhà ai đã nấu cơm chiều, gặp hơi nước nhiều trong không khí thì lan dài là là quấn quýt lấy vừa tầm lưng giậu. Thơ chữ Hán của tác giả cũng có những câu:
Chồi liễu rủ lá xanh, có ánh mặt trời xuyên qua
Giậu tre um màu biếc, làn khói chiều bao phủ.
Mặt nữa, Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt chắc hẳn không phải là trời một đêm trăng, mà phải là trời một buổi chiều. Vì thế cho nên tôi hiểu bài này là khái quát, tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm. Nghĩ như thế rồi, chúng ta thấy bốn câu đi liền nhau (2, 3, 4, 5) về làng cảnh rất hay, nó hay trong cái thực của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, chứ không bay đi đâu xa khác. Nhất là câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt trước ao sáng lóe ra, bốn chữ l khá nặng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ánh bắn đi, từ loe với âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe), như cái ao chẳng hạn. Lịch sử văn học thế giới, qua mấy nghìn năm, đã biểu dương từng câu thơ một của các nhà thơ có tài. Một câu thơ của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc Việt Nam như thế, là một câu thơ hiếm có.
THU VỊNH
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khỏi phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Trong ba bài thơ, bài này mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của cảnh thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu. Trời thu rất xanh rất cao tỏa xuống cả cảnh vật. Cây tre Việt Nam ta, những cây còn non, ít lá, thanh mảnh cao vót như cái cần câu in lên trời biếc, gió đẩy đưa khe khẽ, thật là thanh đạm, hợp với hồn thu. Song thưa để mặc bóng trăng vào cũng thuộc về trời cao; Một tiếng trên không ngỗng nước nào cũng nói về trời cao, gợi sự xa xăm, gợi cái bâng khuâng về không gian. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái gợi cái bâng khuâng man mác về thời gian. Nước biếc trông như tầng khói phủ gợi niềm bay bổng nhẹ nhàng và mơ hồ như hư như thực. Cả khung cảnh mùa thu thanh thoát ấy dẫn đến ý hai cây kết: - Sao ta còn bị buộc chân ở đây, sa lầy trong vòng danh lợi ố bẩn phi nghĩa này? Sao ta chưa trả mũ từ quan quy khứ như Đào Uyên Minh, cho nhẹ nhõm trong sáng?
Bài Thu vịnh có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam (ở Bắc Bộ). Có về thăm “Vườn Bùi chốn cũ” – đây là “xứ Vườn Bùi” theo đồng bào gọi cả vùng Trung Lương nằm trong xã Yên Đổ cũ, chứ không phải chỉ là khu vườn của nhà cụ Nguyễn Khuyến – mới càng hiểu rõ bài Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Sao lắm ao thế! Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Sóng biếc gợn rất nhẹ, một chiếc lá vàng rụng theo gió, bay bay xoay xoay rồi rơi xuống xa xa một cách khẽ khàng. Khung ao tuy hẹp vậy, nhưng làng cảnh cũng không thiếu không gian. Nhìn lên: trời thu xanh cao đám mây đọng lơ lửng; trông quanh: các lối đi trong làng hai bên tre biếc mọc sầm uất, chạy ngoắt ngoẻo cho đến lúc tưởng như tre đã kín lại; mọi người ra đồng làm, cho nên làng vắng teo. Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài […] không thể tóm tắt thơ được, mà phải đọc lại. Cái thú vị của bài Thu điếu là ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi; ở những cử động: chiếc thuyền con lâu lâu mới nhích, sóng gợn tí, lá đưa vèo, tầng mây lửng, ngõ trúc quanh, chiếc cần buông, con cá động; ở các vần thơ: không phải chỉ giỏi vì là những tử vận hiểm hóc, mà chính hay vì kết hợp với từ, với nghĩa chữ, đến một cách thoải mái đúng chỗ, do một nhà nghệ sĩ cao tay; cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3 – 4:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
đối với:
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
thật tài tình; nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, để tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: tí.
Quá trình ngôn ngữ của thơ đi từ thời Lê Hồng Đức, thật hãy còn vất vả nặng nề:
Trời muôn trượng thẳm làu làu sạch,
đến Nguyễn Khuyến đã thành ra:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
thật trong sáng nhẹ nhàng, như không một trở lực nào níu được sự diễn đạt nữa. Thế mới biết những câu thơ thoải mái tự nhiên là kết quả của một sự khổ luyện, khổ luyện qua những thời đại, hoặc là khổ luyện trong một người. Các bạn mới làm thơ nên khái niệm cho được thế nào là sự “đắc đạo” trong nghệ thuật ngôn ngữ.
Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, nhìn gộp chung lại, là thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hóa nội dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam, trên đất nước ta, và dân tộc hóa hình thức lời thơ, câu thơ cho thật là Nôm, là Việt Nam.
(Theo Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1982, tr. 174 – 185)
Nối các ví dụ với cách nêu bằng chứng phù hợp.
Không còn những ước lệ văn hoa sang trọng rèm châu, lầu ngọc, chén vàng,... mà bình dân, nhà cỏ thấp le te, tiến lên hiện thực rồi. Bài thơ này, theo tôi, không phải chỉ nói trong một thời điểm, là trong một đêm trăng hạn định, mà là tổng hợp nhiều thời điểm, khái niệm, khái quát về cảnh thu. Nếu chỉ nói cảnh một đêm thu có trăng, thì bài thơ tù túng và thiếu lô-gíc. Câu thứ hai: Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè, phải là đêm sâu mới hay, mới ngõ thật tối, đóm mới lập loè; còn “đêm khuya” (theo như có bản chép) thì là từ 12 giờ đêm trở đi, chẳng bao hàm ý gì là tối cả, chỉ bao hàm ý muộn và vắng, đêm khuya với đom đóm chẳng đi gì với nhau, vả lại còn phải nghiên cứu thử xem đom đóm có chờ đến khuya mới bay ra, mới bay nhiều hay không? Mà đã “ngõ tối đêm sâu” thì mâu thuẫn với Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Mặt khác, đưa Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt vào cảnh một đêm có trăng, thì không hợp, không điển hình gì cả. Trên mặt nước ao, mặt nước sông lặng, thì điển hình là Nước biếc trông như tầng khói phủ kia; khói nhạt phất phơ lưng giậu là điển hình cho buổi chiều quê, khói bếp nhà ai đã nấu cơm chiều, gặp hơi nước nhiều trong không khí thì lan dài là là quấn quýt lấy vừa tầm lưng giậu.
Trong đoạn văn trên, tác giả đã sử dụng cách phân tích bằng chứng nào?
Trên mặt nước ao, mặt nước sông lặng, thì điển hình là Nước biếc trông như tầng khói phủ kia; khói nhạt phất phơ lưng giậu là điển hình cho buổi chiều quê, khói bếp nhà ai đã nấu cơm chiều, gặp hơi nước nhiều trong không khí thì lan dài là là quấn quýt lấy vừa tầm lưng giậu. Thơ chữ Hán của tác giả cũng có những câu:
Chồi liễu rủ lá xanh, có ánh mặt trời xuyên qua
Giậu tre um màu biếc, làn khói chiều bao phủ.
Trong đoạn văn trên, ngoài sử dụng cách phân tích gắn với tưởng tượng, liên tưởng, tác giả đã sử dụng cách phân tích bằng chứng nào khác?
NHÀ THƠ CỦA QUÊ HƯƠNG LÀNG CẢNH VIỆT NAM
(Xuân Diệu)
Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. […]
Được nhớ, thuộc, và truyền tụng, vì là ba bài thơ hay và điển hình nhất cho mùa thu của Việt Nam, ở miền Bắc nước ta, chứ không ở nước nào khác. Tiêu biểu hơn cả, là bài Thu điếu (Mùa thu ngồi câu cá):
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Đọc lên, như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết mùa thu; rất là đất nước nhà mình, có thật, rất sống, chứ không theo ước lệ như ở trong văn chương sách vở. Hàng vạn người đọc rất tinh, đã thuộc ba bài thu này, mà không thuộc được các bài thu khác (của các tác giả khác). […]
THU ẨM
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.
Không còn những ước lệ văn hoa sang trọng rèm châu, lầu ngọc, chén vàng… mà bình dân, nhà cỏ thấp le te, tiến lên hiện thực rồi. Bài thơ này, theo tôi, không phải chỉ nói trong một thời điểm, là trong một đêm trăng hạn định, mà là tổng hợp nhiều thời điểm, khái niệm, khái quát về cảnh thu. Nếu chỉ nói cảnh một đêm thu có trăng, thì bài thơ tù túng và thiếu lô-gíc. Câu thứ hai: Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe, phải là đêm sâu mới hay, mới ngõ thật tối, đóm mới lập lòe; còn “đêm khuya” (theo như có bản chép) thì là từ 12 giờ đêm trở đi, chẳng bao hàm ý gì là tối cả, chỉ bao hàm ý muộn và vắng, đêm khuya với đom đóm chẳng đi gì với nhau, vả lại còn phải nghiên cứu thử xem đom đóm có chờ đến khuya mới bay ra, mới bay nhiều hay không? Mà đã “ngõ tối đêm sâu” thì mâu thuẫn với Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Mặt khác, đưa Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt vào cảnh một đêm có trăng, thì không hợp, không điển hình gì cả. Trên mặt nước ao, mặt nước sông lặng, thì điển hình là Nước biếc trông như tầng khói phủ kia; khói nhạt phất phơ lưng giậu là điển hình cho buổi chiều quê, khói bếp nhà ai đã nấu cơm chiều, gặp hơi nước nhiều trong không khí thì lan dài là là quấn quýt lấy vừa tầm lưng giậu. Thơ chữ Hán của tác giả cũng có những câu:
Chồi liễu rủ lá xanh, có ánh mặt trời xuyên qua
Giậu tre um màu biếc, làn khói chiều bao phủ.
Mặt nữa, Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt chắc hẳn không phải là trời một đêm trăng, mà phải là trời một buổi chiều. Vì thế cho nên tôi hiểu bài này là khái quát, tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm. Nghĩ như thế rồi, chúng ta thấy bốn câu đi liền nhau (2, 3, 4, 5) về làng cảnh rất hay, nó hay trong cái thực của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, chứ không bay đi đâu xa khác. Nhất là câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt trước ao sáng lóe ra, bốn chữ l khá nặng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ánh bắn đi, từ loe với âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe), như cái ao chẳng hạn. Lịch sử văn học thế giới, qua mấy nghìn năm, đã biểu dương từng câu thơ một của các nhà thơ có tài. Một câu thơ của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc Việt Nam như thế, là một câu thơ hiếm có.
THU VỊNH
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khỏi phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Trong ba bài thơ, bài này mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của cảnh thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu. Trời thu rất xanh rất cao tỏa xuống cả cảnh vật. Cây tre Việt Nam ta, những cây còn non, ít lá, thanh mảnh cao vót như cái cần câu in lên trời biếc, gió đẩy đưa khe khẽ, thật là thanh đạm, hợp với hồn thu. Song thưa để mặc bóng trăng vào cũng thuộc về trời cao; Một tiếng trên không ngỗng nước nào cũng nói về trời cao, gợi sự xa xăm, gợi cái bâng khuâng về không gian. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái gợi cái bâng khuâng man mác về thời gian. Nước biếc trông như tầng khói phủ gợi niềm bay bổng nhẹ nhàng và mơ hồ như hư như thực. Cả khung cảnh mùa thu thanh thoát ấy dẫn đến ý hai cây kết: - Sao ta còn bị buộc chân ở đây, sa lầy trong vòng danh lợi ố bẩn phi nghĩa này? Sao ta chưa trả mũ từ quan quy khứ như Đào Uyên Minh, cho nhẹ nhõm trong sáng?
Bài Thu vịnh có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam (ở Bắc Bộ). Có về thăm “Vườn Bùi chốn cũ” – đây là “xứ Vườn Bùi” theo đồng bào gọi cả vùng Trung Lương nằm trong xã Yên Đổ cũ, chứ không phải chỉ là khu vườn của nhà cụ Nguyễn Khuyến – mới càng hiểu rõ bài Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Sao lắm ao thế! Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Sóng biếc gợn rất nhẹ, một chiếc lá vàng rụng theo gió, bay bay xoay xoay rồi rơi xuống xa xa một cách khẽ khàng. Khung ao tuy hẹp vậy, nhưng làng cảnh cũng không thiếu không gian. Nhìn lên: trời thu xanh cao đám mây đọng lơ lửng; trông quanh: các lối đi trong làng hai bên tre biếc mọc sầm uất, chạy ngoắt ngoẻo cho đến lúc tưởng như tre đã kín lại; mọi người ra đồng làm, cho nên làng vắng teo. Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài […] không thể tóm tắt thơ được, mà phải đọc lại. Cái thú vị của bài Thu điếu là ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi; ở những cử động: chiếc thuyền con lâu lâu mới nhích, sóng gợn tí, lá đưa vèo, tầng mây lửng, ngõ trúc quanh, chiếc cần buông, con cá động; ở các vần thơ: không phải chỉ giỏi vì là những tử vận hiểm hóc, mà chính hay vì kết hợp với từ, với nghĩa chữ, đến một cách thoải mái đúng chỗ, do một nhà nghệ sĩ cao tay; cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3 – 4:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
đối với:
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
thật tài tình; nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, để tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: tí.
Quá trình ngôn ngữ của thơ đi từ thời Lê Hồng Đức, thật hãy còn vất vả nặng nề:
Trời muôn trượng thẳm làu làu sạch,
đến Nguyễn Khuyến đã thành ra:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
thật trong sáng nhẹ nhàng, như không một trở lực nào níu được sự diễn đạt nữa. Thế mới biết những câu thơ thoải mái tự nhiên là kết quả của một sự khổ luyện, khổ luyện qua những thời đại, hoặc là khổ luyện trong một người. Các bạn mới làm thơ nên khái niệm cho được thế nào là sự “đắc đạo” trong nghệ thuật ngôn ngữ.
Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, nhìn gộp chung lại, là thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hóa nội dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam, trên đất nước ta, và dân tộc hóa hình thức lời thơ, câu thơ cho thật là Nôm, là Việt Nam.
(Theo Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1982, tr. 174 – 185)
Dòng nào nói đúng về nghệ thuật của bài viết?
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- Chào mừng các em đến với khóa học Ngữ
- Văn lớp 8 của trang web
- [âm nhạc]
- olm.vn các bạn thân mến ở video trước cô
- trò chúng mình đã cùng nhau tìm hiểu
- chung về tác giả Xuân Diệu và tác phẩm
- nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam
- ngoài ra chúng mình đã đi sau khám phá
- luận đề và hệ thống luận điểm lý lẽ bằng
- chứng để thấy rõ cách lập luận của tác
- giả trong video Ngày hôm nay chúng ta sẽ
- cùng nhau đến với một nội dung vô cùng
- thú vị đó chính là nghệ thuật nghị luận
- Phần này sẽ giúp cho các bạn rút ra
- những kinh nghiệm những bài học sâu sắc
- khi chúng ta viết một văn bản nghị luận
- trong phần thứ hai nghệ thuật nghị luận
- đầu tiên chúng ta sẽ tìm hiểu về vai trò
- của luận điểm lý lẽ bằng chứng từ việc
- tìm ra luận đề luận điểm lý lẽ bằng
- chứng ở các phần trước đến với nội dung
- này chúng ta có thể nhận ra các luận
- điểm lý lẻ bằng chứng trong bài có vai
- trò rất quan trọng theo các bạn đó là
- vai trò
- gì rất dễ dàng để chúng ta có thể nhận
- biết được luận điểm lý lẽ bằng chứng đều
- tập trung hướng đến việc làm sáng tỏ
- luận đề các luận điểm lý lẽ bằng chứng
- về nét chung vẻ đẹp riêng của ba bài thơ
- Thu là sự cụ thể hóa luận đề về vẻ đẹp
- của làng cảnh Việt Nam trong thơ nguyện
- Khuyến có thể thấy các luận điểm lý lẽ
- bằng chứng được tác giả sử dụng hợp lý
- và rất chính xác vậy thì cách nêu bằng
- chứng có gì đặc biệt chúng ta cần tập
- trung Tìm hiểu cách nêu bằng chứng và
- nhận xét về cách phân tích bằng chứng
- của tác giả để thực hiện được nhiệm vụ
- này các bạn cần chú ý dựa vào phần tri
- thức ngữ văn về bằng chứng như ở phần
- tri thức Ngữ văn cho biết bằng chứng
- trong văn bản nghị luận văn học có thể
- là câu văn đoạn văn dòng thơ chi tiết
- hình ảnh Vân Vân Được dẫn từ tác phẩm
- theo thông lệ Khi dẫn người viết có thể
- trích nguyên văn hoặc diễn giải lại vậy
- các em thấy Xuân Diệu đã dùng những cách
- nêu bằng chứng nào chúng ta sẽ tìm hiểu
- ngay bây giờ nhé trong văn bản Nghi luận
- này tác giẽ sử dụng linh hoạt nhiều cách
- thức khác nhau các bạn hãy cùng với cô
- thực hiện bài tập sau
- đây đầu tiên có thể thấy trong văn bản
- này tác giả đã trích Dận nguyên văn bài
- thơ câu thơ cụm từ và từ rất đơn giản
- đúng không nào chỉ cần nhìn qua bài viết
- chúng ta có thể phát hiện được ngay điều
- này cách thứ hai tác giả đã dẫn gián
- tiếp ý thơ ví dụ như đoạn dẫn ý hai câu
- kết trong bài thu Vình cả khung cảnh mùi
- thu thanh thoát ấy dẫn đến ý hai câu kết
- Sao ta còn bị buộc chân ở đây X lầy
- trong vòng danh lời ố bẩn phi nghĩa này
- sao ta chưa trả mũ Từ Quang quy khứ như
- đào Uyên minh cho nhẹ nhõm trong sáng
- Cách thứ ba tác giả dẫn các hình ảnh thơ
- chúng ta có thể quan sát đoạn dẫn hình
- ảnh trong bài Thu Điếu đoạn từ sóng biết
- gợn rất nhẹ cho đến làng vắn teo hay
- đoạn từ cái thú vị của bài Thu Điếu cho
- đến chiếc cần buông con cá động
- sau khi đã chỉ ra được cách nêu bằng
- chứng bây giờ chúng ta sẽ nhận xét về
- cách phân tích bằng chứng của tác giả
- các bạn
- nhé Chúng mình cần phải trả lời được câu
- hỏi cách phân tích bằng chứng của tác
- giả có thuyết phục không có toàn diện
- không và vì sao có thể nói cách phân
- tích bằng chứng trong văn bản rất thuyết
- phục và sắc bén chúng ta có thể lấy một
- vài ví dụ cụ thể để các bạn xem xét và
- phân tích hãy cùng với cô thực hiện bài
- tập sau
- đây Trước hết chúng ta thấy được rằng
- trong bài viết Xuân Diệu đã phân tích cụ
- thể chi tiết chú trọng các nghĩa lý giải
- chúng ta có thể chú ý vào đoạn từ không
- còn những ước lệ văn hoa cho đến vừa tầm
- lương Dậu trong đoạn này tác giả chứng
- minh Thu Ẩm là bài thơ được viết trong
- nhiều thời điểm là sự khái quát về cảnh
- thu mỗi bằng chứng đưa ra đều làm sáng
- tỏ luận điểm này với mỗi bằng chứng tác
- giả đều phân tích cụ thể chi tiết Lý
- giải rất rõ ràng Chẳng hạn khi phân tích
- về đêm sau tác giả chỉ ra phải là đêm
- sau mới hay mới ngõ Thật tối đóm mới lặp
- lòe còn đêm khuya theo như có bản chép
- thì là từ 12:00 đêm trở đi chẳng bao hàm
- ý gì là tối cả chỉ bao hàm ý muộn và vắn
- Đêm Khuya với đm đóm chẳng đi gì với
- nhau Vả lại còn phải nghiên cứu thử xem
- đm đm có chờ đến khuya mới bay ra mới
- bay nhiều hay
- không tiếp theo chúng ta có thể thấy
- trong bài viết này tác giả phân tích bám
- sát ngôn ngữ văn bản tác giả đã bám sát
- văn bản để phân tích mọi diễn giải suy
- luận giảng Bình đều dựa trên cơ sở văn
- bản chứ không rơi vào bình tán điển hình
- là những đoạn phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ
- của ba bài thơ Thu chúng ta có thể chú ý
- vào đoạn phân tích câu thơ Làng ao lóng
- lánh bóng trăng loe hoặc đoạn phân tích
- hai câu sóng Biết Theo làng hơi gần tí
- lá vàng trước gió sẽ đưa vèo làm ví dụ
- minh họa các bạn nhé Ngoài ra tác giả
- còn phân tích gắn với tưởng tượng liên
- tưởng trong văn bản nghị luận này bằng
- sự liên tưởng tưởng tượng tinh tế của
- một nhà thơ không ít lần Xuân Diệu đã
- phân tích cho người đọc hiểu được vẻ đẹp
- của hình ảnh thơ ví dụ như câu phân tích
- câu thơ Nước biết trông như tầng khối
- phủ hay là đoạn phân tích câu thơ Cần
- trúc lơ vơ xó hắc hu hoặc là đoạn phân
- tích các câu ao thu lạnh lẽo Nước trong
- veo Ngõ Trúc quanh co khách vắn teo
- chúng ta có thể quan sát trên màn hình
- ngoài những cách phân tích mà chứng mình
- vừa tìm hiểu trong bài viết tác giả còn
- vận dụng những cách phân tích khác hãy
- cùng cô thực hiện bài tập sau
- đây với bài tập vừa rồi chúng mình thấy
- rằng tác giả đã phân tích gắn với so
- sánh liên hệ trong văn bản khi phân tích
- bằng chứng tác giả đã liên hệ đến những
- câu thơ khác để tăng tính thuyết phục
- cho lý lẽ của mình Ví dụ Xuân Diệu đã
- liên hệ hai câu thơ của Nguyễn Khuyến tr
- r lá xanh có Ánh Mặt Trời Xuyên Qua Dậu
- tre um màu biết làng khói chiều bao phủ
- để củng cố làm tăng tính thuyết phục cho
- lý giải của mình về câu thơ Nước biết
- trông như tầng khói phủ tác giả cũng
- liên hệ câu thơ trời muôn trượng thảm
- lầu lầu sạch từ thời Lê Hồng Đức khi
- phân tích bằng chứng về sự trong sáng
- nhẹ nhõm tự nhiên của ngôn ngữ thơ
- nguyện Khuyến
- Như vậy thông qua hai video chúng mình
- đã cùng nhau tìm hiểu rất nhiều những
- kiến thức thú vị bổ ích về bài viết nhà
- thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam và
- thấy rõ được cách mà tác giả sử dụng hệ
- thống luận điểm lý lẻ bằng chứng cũng
- như là nghệ thuật nghị luận đúng không
- nào Bây giờ chúng ta sẽ cùng nhau đi vào
- phần tổng kết về nội dung bài viết đã
- đưa ra hệ thống luận đề luận điểm lý lẻ
- và bằng chứng chặt chẽ mạch lạc để làm
- sáng tỏ vấn đề vẻ đẹp của làng quê Việt
- Nam trong ba bài thơ Thu của tác giả
- Nguyễn Khuyến về mặt nghệ thuật Theo các
- bạn dòng nào nói đúng về nghệ thuật của
- bài
- viết thứ nhất Chúng ta thấy rằng Bài
- viết có cách mở đầu dẫn dắt vấn đề tự
- nhiên rất hợp lý thứ hai cách tổ chức
- luận điểm chặt chẽ sử dụng lý lẽ bằng
- chứng tiêu biểu dầu sức TH thuyết phục
- thứ ba ngôn ngữ giàu hình ảnh chọn lọc
- từ ngữ tinh tế và cuối cùng đó là lời
- văn xen kẻ yếu tố biểu cảm khiến cho văn
- bản giàu cảm
- xúc để kết thúc video Ngày hôm nay chúng
- ta sẽ cùng nhau đến với phần viết kết
- nối với đọc trong phần này yêu cầu đặt
- ra cho các bạn đó là viết đoạn văn
- khoảng 7 đến chín câu nêu cảm nhận của
- em về một hình ảnh đặc sắc trong một bài
- thơ Thu của nguyện Khuyến
- các bạn có thể tự do lựa chọn một hình
- ảnh đặc sắc trong một bài thơ như hình
- ảnh làn ao lóng lánh hoặc là hình ảnh
- trời thu xanh ngắt hoặc là hình ảnh ao
- thu lạnh
- lẽo Để thực hiện được bài tập này các
- bạn có thể trả lời một vài câu hỏi cơ
- bản như sau thứ nhất hình ảnh thơ hiện
- lên như thế nào thứ hai nghệ thuật thể
- hiện hình ảnh ấy có gì đặc sắc các bạn
- cũng có thể liên hệ so sánh để làm nổi
- bật vẻ đẹp của hình ảnh ví dụ khi chọn
- hình ảnh về bầu trời trong thú ẩm thì
- các bạn có thể liên hệ so sánh với hình
- ảnh bầu trời trong Thu Vịnh và Thu Điếu
- chẳng hạn ngoài ra các bạn cũng cần chú
- ý đoạn văn cần phải có câu chủ đề và các
- câu trong đoạn hướng đến việc làm sáng
- tỏ chủ đề ấy các bạn nhé cô Hy vọng rằng
- các bạn học sinh của cô có thể làm tốt
- được bài tập này còn bây giờ Xin chào và
- hẹn các bạn ở những video tiếp
- theo
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây