Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Rô-bin-xơn Cru-xô là tác phẩm của nhà văn nào?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Rô-bin-xơn là người nước nào?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích trong tác phẩm nào?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Rô-bin-xơn Cru-xô là tác phẩm viết dưới hình thức thể loại nào?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Rô-bin-xơn Cru-xô được kể theo ngôi thứ mấy?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Ngôi kể của văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang cùng ngôi kể với văn bản nào dưới đây?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Nội dung chính của văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang là gì?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Sắp xếp các dòng sau theo thứ tự kể của văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang:
- Những miêu tả về trang phục, đồ dùng và dụng cụ của Rô-bin-xơn.
- Lời dẫn truyện của chính Rô-bin-xơn.
- Những miêu tả về diện mạo của Rô-bin-xơn.
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Nối các dòng sau để hoàn chỉnh bố cục của văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang:
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Đảo hoang mà Rô-bin-xơn sống thuộc miền khí hậu nào?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang nói về thời điểm nào trong thời gian Rô-bin-xơn sống trên hoang đảo?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Trang phục của Rô-bin-xơn được làm bằng chất liệu gì?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Nhận xét nào sau đây nói đúng về chân dung của Rô-bin-xơn?
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Nhận xét nào sau đây chưa chính xác về trang phục của Rô-bin-xơn?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Cách kể của Rô-bin-xơn cho ta thấy điều gì?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Những từ in đậm ở câu nào dưới đây là tính từ?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Dòng nào dưới đây chỉ chứa các danh từ và cụm danh từ?
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Hoàn thành những chi tiết tả trang phục tự tạo, kì lạ mà tiện dụng của Rô-bin-xơn bằng cách ghép:
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Ghép các dòng sau để hoàn thành những chi tiết miêu tả về trang bị của Rô-bin-xơn:
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Hoàn thành những chi tiết mô tả diện mạo của Rô-bin-xơn bằng cách nối:
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Phân loại những chi tiết miêu tả về trang phục, trang bị, diện mạo của Rô-bin-xơn:
- Đeo cưa, rìu ở thắt lưng
- Mũ cao lêu đêu bằng da dê
- Để dù trên đầu
- Râu dài hơn gang tay
- Quần dài đến bắp chân, bằng da dê
- Da dẻ không đến nỗi đen cháy
- Giày tự tạo, như chiếc ủng
- Gùi ở sau lưng
- Khoác súng bên vai
- Áo vạt dài bằng da dê
- Ria mép to tướng
- Túi đựng thuốc súng, đạn ghém
Trang phục
Trang bị
Diện mạo
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Nối để được những nhận xét về trang phục, ngoại hình của Rô-bin-xơn:
RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô)
Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi đang lang thang khắp miền Y-ooc-sai với trang bị(1) và áo quần như vậy. Xin các bạn vui lòng hình dung bộ dạng của tôi như dưới đây.
Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và một cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên,... nhưng hình dáng hết sức kì cục(2) chẳng khác gì áo quần của tôi.
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một chiếc đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi(3) sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi. Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo(4). Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho mọc dài đến một gang tay(5); nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo(6) đủ dùng, nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo(7) như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê(8), vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
(Đ. Đi-phô, Rô-bin-xơn Cru-xô,
Tủ sách cho mọi nhà, Luân Đôn, 1992.
Đoạn trích do NBS dịch và đặt nhan đề)
Chú thích:
(*) Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 - 1731) là nhà văn lớn của Anh ở thế kỉ XVIII. Ông đến với tiểu thuyết khá muộn, khi đã gần sáu mươi tuổi. Rô-bin-xơn Cru-xô (1719) là tiểu thuyết đầu tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Sau đó ông còn viết một số cuốn khác như Thủ lĩnh Xin-gơn-tơn (1720), Rô-xa-na (1724),...
Văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích từ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin-xơn Cru-xô, xưng "tôi" tự kể chuyện mình. Một ngày cuối tháng chín, năm 27 tuổi, Rô-bin-xơn quê ở miền Y-ooc-sai, nước Anh, bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào đảo hoang không có dấu chân người. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin-xơn, khi ấy đã 55 tuổi, mới trở về được Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
(1) Trang bị: các vật dụng mang theo người.
(2) Kì cục: khác thường đến mức vô lí.
(3) Gùi: Giỏ lớn đan bằng tre hoặc mây đeo sau lưng bằng hai quai quàng qua vai.
(4) Chín hoặc mười độ miền xích đạo: vị trí của đảo hoang nơi Rô-bin-xơn bị đắm tàu và dạt vào.
(5) Hơn một gang tay: nguyên văn viết là khoảng một phần tư iat (iat là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,914m).
(6) Kéo, dao cạo: những vật dụng này, cũng như cái cưa, cái rìu, khẩu súng, thuốc đạn trên kia là do Rô-bin-xơn vớt được mang lên đảo từ ngày con tàu bị đắm.
(7) Kiểu Hồi giáo: kiểu (để ria mép) của những người theo đạo Hồi.
(8) Xa-lê: hải cảng của Ma-rốc, một nước ở Bắc Phi. Rô-bin-xơn trước khi bị đắm tàu, dạt vào đảo hoang, đã có lần đến hải cảng này.
Rô-bin-xơn đã phiêu lưu, lạc trên đảo hoang trong bao lâu?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây