Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Văn bản Ca Huế trên sông Hương được viết bởi tác giả nào?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Văn bản Ca Huế trên sông Hương được viết theo hình thức nào?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Ca Huế trên sông Hương thuộc loại văn bản nào?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Đâu không phải đặc điểm của văn bản nhật dụng?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Văn bản Ca Huế trên sông Hương đề cập đến những nội dung gì?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Xác định nội dung của từng phần trong văn bản Ca Huế trên sông Hương:
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Xác định thời điểm mà đêm ca Huế diễn ra:
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Trong đoạn 1, khi giới thiệu về các làn điệu ca Huế, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Ca Huế có nguồn gốc từ đâu và có đặc điểm như thế nào?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Nơi tổ chức đêm ca Huế trên sông Hương là
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống:
- Bắc Ninh
- Sài Gòn
- Hà Nội
- Hội An
- Huế
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi. Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Đoạn văn trên miêu tả điều gì?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Dòng nào sau đây nói đúng nhất những nguyên nhân tạo nên nét độc đáo của đêm ca Huế trên sông Hương?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Khi biểu diễn, trang phục của các ca công như thế nào?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Mở đầu đêm ca Huế được mở đầu bằng mấy khúc nhạc?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Danh thắng nào của Huế không được nhắc tới trong văn bản Ca Huế trên sông Hương?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Theo em, cách nghe ca Huế trong bài văn có gì độc đáo so với nghe qua băng ghi âm và băng video?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Cung bậc nào sau đây không được dùng để miêu tả tiếng đàn của các nhạc công?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Vì sao có thể nói: Ca Huế vừa sôi nổi tươi vui, vừa trang trọng uy nghi?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân. Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh.
Đoạn văn trên nói về khoảng thời gian nào khi nghe ca Huế?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Câu văn nào dưới đây nói lên vẻ đẹp của con người xứ Huế?
CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG(*)
Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung(1) náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện(2) gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng(3) thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam(4).
Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách(5) thích giang hồ(6) với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam(7). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh(8) để gõ nhịp.
Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp(9), nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam. Những chiếc áo dài đầu tiên hiện còn được lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế(10).
Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn ràng.
Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ(11) du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi(12). Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc(13) trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng(14), thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc(15). Thú nghe ca Huế tao nhã(16), đầy sức quyến rũ.
Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ(17) hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên(18) dát ánh trăng vàng. Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân(19). Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh(20). Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán,... Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Nghe tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh, mà trong khoang thuyền vẫn đầy ắp lời ca tiếng nhạc.
Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng lại. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
Chú thích:
(*) Ca Huế: dân ca Huế nói riêng và vùng Thừa Thiên nói chung. Ca Huế ở đây chỉ một sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo của cố đô Huế: người nghe và người hát cùng ngồi trên thuyền đi trên sông Hương; Ca Huế thường diễn ra vào ban đêm và chủ yếu hát các làn điệu dân ca Huế.
(1), (2), (4) Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện, lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam: tên những làn điệu dân ca.
(3) Hoài vọng: tâm trạng mong chờ tha thiết một điều gì đó cao xa, khó đạt được.
(5) Lữ khách: người đi đường xa.
(6) Giang hồ: chỉ người đi nhiều nơi, sống nay đây mai đó. (Giang: sông).
(7) Đàn tranh (còn gọi là đàn thập lục, loại đàn có mười sáu dây); đàn nguyệt (đàn có hai dây); tì bà (đàn có bốn dây, hình quả bầu); nhị (nhạc cụ có hai dây tơ, kéo bằng vĩ, làm từ lông đuôi ngựa); đàn tam (đàn ba dây): các nhạc cụ dân tộc có từ xưa.
(8) Cặp sanh (sênh tiền): nhạc khí cổ làm bằng hai thỏi gỗ, cứng có đính cọc tiền đồng dùng để điểm nhịp.
(9) Áo dài the, quần thùng, đầu đội khăn xếp: cách ăn mặc (trang phục) của người xưa trong các lễ hội hoặc khi biểu diễn ca hát.
(10) Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế: nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật trang trí mĩ thuật cung đình thời phong kiến (triều Nguyễn) tại Huế.
(11) Lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ: tên bốn khúc nhạc mở đầu đêm ca Huế.
(12) Ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi: những động tác của nhạc công khi đánh các loại đàn cổ (còn gọi là ngón đàn).
(13) Nhạc cung đình, nhã nhạc: nhạc dùng trong các buổi lễ trang nghiêm, nơi tôn miếu, triều đình thời phong kiến.
(14) Nhạc thính phòng: nhạc thường do một người hay một nhóm ít người biểu diễn trong phòng khách hoặc phòng hòa nhạc nhỏ.
(15) Thanh nhạc: âm nhạc biểu diễn bằng giọng hát; khí nhạc: âm nhạc do nhạc khí phát ra (biểu diễn bằng nhạc cụ).
(16) Tao nhã: thanh cao và lịch sự.
(17) Thiên Mụ: còn gọi là chùa Linh Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nằm bên bờ sông Hương, phía tây thành phố Huế.
(18) Tháp Phước Duyên: ngọn tháp ở chùa Thiên Mụ.
(19) Nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân: những làn điệu dân ca Huế.
(20) Tứ đại cảnh: một làn điệu dân ca Huế.
(21) Thọ Cương: một địa danh của Huế, nằm ở bên bờ sông Hương (Dị bản ca dao: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương).
Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống:
Cố đô Huế nổi tiếng không phải chỉ có các và di tích lịch sử mà còn nổi tiếng bởi các và âm nhạc cung đình. Ca Huế là một hình thức - âm nhạc thanh lịch và tao nhã; một sản phẩm tinh thần đáng trân trọng, cần được .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây