Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Văn bản Văn hóa hoa - cây cảnh được sáng tác bởi tác giả nào dưới đây?
Về tác giả Trần Quốc Vượng
- GS. Trần Quốc Vượng (1934 - 2005) là con út trong một gia đình trí thức Nho học “cuối mùa”, nguyên quán ở Duy Tiên, Hà Nam nhưng ông được sinh ra và lớn lên tại Kinh Môn, Hải Dương. Kế thừa những tri thức của gia đình, lại được học tập tại hệ thống trường Pháp, người con của sông Châu-núi Đọi-họ Trần ấy đã sớm bộc lộ tư chất thông minh, xuất sắc hơn người. Trở thành sinh viên khóa I của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, được may mắn thụ giáo những người thầy nổi tiếng và uyên bác như các giáo sư: Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Trần Đức Thảo, Cao Xuân Huy, Đặng Thai Mai, Nguyễn Mạnh Tường... Năm 1956, sau khi tốt nghiệp, Trần Quốc Vượng được giữ lại làm tập sự trợ lý cho GS. Đào Duy Anh tại Bộ môn Cổ sử Việt Nam. Ông đã gắn trọn cuộc đời mình với sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- GS. Trần Quốc Vượng là người cùng với thế hệ khai sáng của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN đã thắp sáng và thổi bùng lên niềm say mê tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử-văn hoá dân tộc cho các thế hệ học trò. Không chỉ như vậy, GS. Trần Quốc Vượng còn là một trong những nhà khoa học có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu, bảo tồn, khẳng định bản sắc văn hoá dân tộc, truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc, tôi rèn qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trước khi được Nhà nước phong tặng danh hiệu Giáo sư vào năm 1980, thì từ những thập kỷ trước đó, Ông đã được nhân dân gọi là Giáo sư với tất cả sự kính trọng và yêu mến, được tôn vinh là một trong “tứ trụ” của Khoa Lịch sử, rộng ra là ngành Lịch sử-Văn hoá Việt Nam, tên tuổi ông trở thành huyền thoại, thành niềm kiêu hãnh của nhiều thế hệ học trò.
- Một số tác phẩm nổi bật: Việt Nam khảo cổ học; Theo dòng lịch sử; Tìm hiểu văn hóa dân gian Hà Nội; Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm; Con người - Môi trường - Văn hóa,…
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
GS. Trần Quốc Vượng sinh năm , mất năm ; quê quán ở Duy Tiên, nhưng được sinh ra và nuôi nấng ở vùng đất Kinh Môn, . Ông là trong một gia đình trí thức Nho học "cuối mùa".
Về tác giả Trần Quốc Vượng
- GS. Trần Quốc Vượng (1934 - 2005) là con út trong một gia đình trí thức Nho học “cuối mùa”, nguyên quán ở Duy Tiên, Hà Nam nhưng ông được sinh ra và lớn lên tại Kinh Môn, Hải Dương. Kế thừa những tri thức của gia đình, lại được học tập tại hệ thống trường Pháp, người con của sông Châu-núi Đọi-họ Trần ấy đã sớm bộc lộ tư chất thông minh, xuất sắc hơn người. Trở thành sinh viên khóa I của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, được may mắn thụ giáo những người thầy nổi tiếng và uyên bác như các giáo sư: Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Trần Đức Thảo, Cao Xuân Huy, Đặng Thai Mai, Nguyễn Mạnh Tường... Năm 1956, sau khi tốt nghiệp, Trần Quốc Vượng được giữ lại làm tập sự trợ lý cho GS. Đào Duy Anh tại Bộ môn Cổ sử Việt Nam. Ông đã gắn trọn cuộc đời mình với sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- GS. Trần Quốc Vượng là người cùng với thế hệ khai sáng của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN đã thắp sáng và thổi bùng lên niềm say mê tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử-văn hoá dân tộc cho các thế hệ học trò. Không chỉ như vậy, GS. Trần Quốc Vượng còn là một trong những nhà khoa học có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu, bảo tồn, khẳng định bản sắc văn hoá dân tộc, truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc, tôi rèn qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trước khi được Nhà nước phong tặng danh hiệu Giáo sư vào năm 1980, thì từ những thập kỷ trước đó, Ông đã được nhân dân gọi là Giáo sư với tất cả sự kính trọng và yêu mến, được tôn vinh là một trong “tứ trụ” của Khoa Lịch sử, rộng ra là ngành Lịch sử-Văn hoá Việt Nam, tên tuổi ông trở thành huyền thoại, thành niềm kiêu hãnh của nhiều thế hệ học trò.
- Một số tác phẩm nổi bật: Việt Nam khảo cổ học; Theo dòng lịch sử; Tìm hiểu văn hóa dân gian Hà Nội; Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm; Con người - Môi trường - Văn hóa,…
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về tác giả Trần Quốc Vượng?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Là nhà khoa học có những đóng góp to lớn đối với việc bảo tồn, khẳng định văn hóa dân tộc. |
|
b) Được Nhà nước phong tặng danh hiệu Giáo sư chính thức vào năm 1979 tại Hải Dương. |
|
c) Được tôn vinh là một trong "tứ trụ" của khoa Lịch sử và ngành Lịch sử - Văn hóa Việt Nam. |
|
d) Là tập sự trợ lí cho GS. Đặng Thai Mai tại Đại học Tổng hợp Hà Nội sau khi tốt nghiệp. |
|
Về tác giả Trần Quốc Vượng
- GS. Trần Quốc Vượng (1934 - 2005) là con út trong một gia đình trí thức Nho học “cuối mùa”, nguyên quán ở Duy Tiên, Hà Nam nhưng ông được sinh ra và lớn lên tại Kinh Môn, Hải Dương. Kế thừa những tri thức của gia đình, lại được học tập tại hệ thống trường Pháp, người con của sông Châu-núi Đọi-họ Trần ấy đã sớm bộc lộ tư chất thông minh, xuất sắc hơn người. Trở thành sinh viên khóa I của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, được may mắn thụ giáo những người thầy nổi tiếng và uyên bác như các giáo sư: Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Trần Đức Thảo, Cao Xuân Huy, Đặng Thai Mai, Nguyễn Mạnh Tường... Năm 1956, sau khi tốt nghiệp, Trần Quốc Vượng được giữ lại làm tập sự trợ lý cho GS. Đào Duy Anh tại Bộ môn Cổ sử Việt Nam. Ông đã gắn trọn cuộc đời mình với sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- GS. Trần Quốc Vượng là người cùng với thế hệ khai sáng của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN đã thắp sáng và thổi bùng lên niềm say mê tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử-văn hoá dân tộc cho các thế hệ học trò. Không chỉ như vậy, GS. Trần Quốc Vượng còn là một trong những nhà khoa học có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu, bảo tồn, khẳng định bản sắc văn hoá dân tộc, truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc, tôi rèn qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trước khi được Nhà nước phong tặng danh hiệu Giáo sư vào năm 1980, thì từ những thập kỷ trước đó, Ông đã được nhân dân gọi là Giáo sư với tất cả sự kính trọng và yêu mến, được tôn vinh là một trong “tứ trụ” của Khoa Lịch sử, rộng ra là ngành Lịch sử-Văn hoá Việt Nam, tên tuổi ông trở thành huyền thoại, thành niềm kiêu hãnh của nhiều thế hệ học trò.
- Một số tác phẩm nổi bật: Việt Nam khảo cổ học; Theo dòng lịch sử; Tìm hiểu văn hóa dân gian Hà Nội; Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm; Con người - Môi trường - Văn hóa,…
Tác phẩm nào dưới đây được sáng tác bởi tác giả Trần Quốc Vượng?
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Văn bản Văn hóa hoa - cây cảnh thuộc kiểu văn bản nào dưới đây?
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Nối bố cục của văn bản với nội dung tương ứng.
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Nối bố cục của văn bản với nội dung tương ứng.
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Có hệ thực vật phong phú. |
|
b) Có khí hậu gió mùa ôn đới. |
|
c) Gắn với đại lục và đại dương. |
|
d) Có sự đơn điệu về địa hình. |
|
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Vào thời kì , con người phụ thuộc gần như và nặng nề vào môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, trong quá trình sinh sống ấy, con người còn , cải tạo và xây dựng hệ sinh thái mới - được gọi là thiên nhiên thứ hai, bao gồm các nền và những cách ứng xử khác nhau đối với từng đối tượng riêng biệt.
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Theo tác giả Trần Quốc Vượng, phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, có truyền thống nào dưới đây?
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Ở Trung Hoa, nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế vào thời
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Văn hóa hoa - cây cảnh hiện nay vẫn còn được bảo tồn ở những địa danh nào dưới đây?
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Thú chơi hoa - cây cảnh hiện nay cần có sự của con người không vướng bụi trần. Điều này đòi hỏi sự của tầng lớp trung lưu, với mức sống có "bát ăn bát để" cùng nếp sống . Đó là tầng lớp trong lao động thì miệt mài, hăng say, trong đời sống thì biết tận hưởng, nuôi dưỡng .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về văn hóa hoa - cây cảnh?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Tồn tại lâu đời, sâu sắc trong văn hóa, nếp sống của người Việt. |
|
b) Xuất hiện ở Trung Quốc vào thời Hán, ở nước ta vào thời Lý. |
|
c) Được coi là một ngành nghệ thuật lớn, ttế vào thời Trần. |
|
d) Được đưa vào trong không gian sống, làm việc hiện nay. |
|
VĂN HÓA HOA - CÂY CẢNH
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,... không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa...”.
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh...
Con người - loài người là một sản phẩm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình... [...]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trong ngày, trông đêm...”. Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước”, “hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo...” với tục thờ cây cối... [...]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ải thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tính người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [...] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây,...) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước”... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao)... đến cửa nhà quan:
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[...] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [...]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc,... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa... và dòng sông xưa nay đã hoá nên đồng. Song văn hoá hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hoá kinh doanh trong cơ chế thị trường...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [...]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa”, quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu.... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng,... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử,...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá...
(Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hoá Dân tộc - tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr. 578 - 584)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Văn bản Văn hóa hoa - cây cảnh của tác giả Trần Quốc Vượng là văn bản bàn về văn hóa hoa - cây cảnh, tình yêu thiên nhiên, lối sống hài hòa, gần gũi với thiên nhiên của khu vực nói chung và con người Việt Nam nói riêng. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, để có thể tạo dựng cho mình một không gian cư trú gần gũi, thân thiện với tự nhiên, con người sẽ gặp phải không ít về kinh tế, môi trường, không gian sống,... Dù vậy, để thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người vẫn cố gắng đưa vào không gian cư trú của mình như cơ quan, nơi làm việc, nhà văn hóa, v.v...
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây