Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
Tác giả của tập thơ Nhật kí trong tù là ai?
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
...
II. Hồ Chí Minh - Nhà văn, nhà thơ lớn
1. Một sự nghiệp văn học lớn lao và phong phú
Sinh thời, Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ, nhưng thực tiễn toàn bộ sáng tác thơ văn của Người với hàng trăm tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau là một bằng chứng hùng hồn về một sự nghiệp văn học lớn lao.
Sự phong phú, đa dạng trong sự nghiệp văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trên nhiều phương diện. Xuất phát từ “ham muốn tột bậc” là đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh coi văn chương trước hết phải là vũ khí chiến đấu, có đối tượng và mục đích rõ ràng. Vì thế, Người viết bằng nhiều thể loại với những bút pháp và phong cách khác nhau; viết bằng nhiều ngôn ngữ, khi viết bằng tiếng Pháp, lúc viết bằng tiếng Hán, nhiều sáng tác bằng tiếng Việt (chữ Quốc ngữ),... Nổi bật lên trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh là các tác phẩm văn nghị luận, truyện và kí, thơ ca.
Văn nghị luận của Hồ Chí Minh gồm những tác phẩm chủ yếu nhằm mục đích đấu tranh chính trị, phục vụ cách mạng qua các chặng đường lịch sử. Từ những năm đầu của thế kỉ XX, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, bằng tiếng Pháp, Người đã viết rất nhiều bài báo chính luận đăng trên các tờ báo Người cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L'Humanité),... Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) đã vạch trần chính sách vô nhân đạo, tội ác và sự lừa dối của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa từ những bằng chứng xác thực, lí lẽ đanh thép, lời văn sắc bén,...
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập - một văn kiện lịch sử bất hủ, một tác phẩm nghị luận mẫu mực: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục,...
Trong các giai đoạn sau này, Hồ Chí Minh còn viết nhiều tác phẩm nghị luận nổi tiếng khác, đặc biệt là các bài viết trong những thời khắc lịch sử của dân tộc. Đó là Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Người viết nhằm kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa giành được; lời kêu gọi Không có gì quý hơn độc lập, tự do (1966), Người viết khi đế quốc Mỹ ồ ạt ném bom đánh phá miền Bắc. Cuối đời, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản Di chúc (1969) đầy ân tình, thiết tha, vừa thể hiện tầm nhìn sâu rộng vừa thể hiện tình yêu thương mênh mông vô tận với đồng bào, đồng chí,... Các tác phẩm này không chỉ là những văn kiện lịch sử quý giá mà còn là những áng văn nghị luận mẫu mực; nội dung đều là các vấn đề trọng đại, sâu sắc, lời văn hào hùng, tha thiết, có tác động mạnh mẽ đến trái tim và khối óc của hàng trăm triệu con người.
Truyện và kí dù chiếm số lượng không nhiều trong sự nghiệp văn học của Người nhưng cũng để lại nhiều thành tựu, mang rõ dấu ấn phong cách Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh.
Về truyện, có thể kể một số truyện ngắn ra đời vào những năm 1922 - 1925 được Người viết bằng tiếng Pháp như Pa-ri, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Con người biết mùi hun khói,... Đây là các tác phẩm văn chương hư cấu, thường nhân một sự kiện, sự việc, câu chuyện có thật, Người tưởng tượng và sáng tạo ra nhằm thể hiện tư tưởng, thái độ của mình. Chẳng hạn, nhân tin quốc vương nước Nam là Khải Định sắp làm “khách của nước Pháp”, Người viết các truyện Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”. Trước sự kiện nhà cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc (1925) ở Trung Quốc giải về giam ở Hoả Lò - Hà Nội và sắp bị xử bắn, còn Va-ren thì chuẩn bị sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, Người viết truyện Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu. Với các tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng hình ảnh biếm hoạ sắc sảo về ông vua bù nhìn Khải Định, tên thực dân Va-ren trơ tráo, giả dối và dựng lên hình tượng Phan Bội Châu uy nghi, lẫm liệt,... Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc rất cô đọng, tình huống độc đáo, cốt truyện sáng tạo, có sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú và lời văn linh hoạt, hóm hỉnh, sắc sảo.
Về kí, ngoài tác phẩm Nhật kí chìm tàu (1931), Hồ Chí Minh còn có tập hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963) ghi bút danh là T. Lan,... Qua tập hồi kí này, người đọc thấy hiện lên một “cái tôi” rất đỗi trẻ trung và hồn nhiên, giản dị; thể hiện một tình cảm chân thành, nồng hậu,...
Thơ ca là lĩnh vực mang lại các giá trị sáng tạo văn học nổi bật, thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Trước hết phải kể đến tác phẩm Nhật kí trong tù, tập thơ được Người viết bằng chữ Hán trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc ở tỉnh Quảng Tây từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943. Với 133 bài thơ, Nhật kí trong tù phản ánh tâm hồn, tình cảm nhân đạo, ý chí kiên cường và nhân cách cao đẹp của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng” trong hoàn cảnh cực khổ chốn lao tù. Nhật kí trong tù cũng là bức tranh hiện thực đầy cảnh bất công, tàn bạo được Người tái hiện một cách sinh động, chân thực nhằm tố cáo mạnh mẽ chế độ nhà tù của Quốc dân đảng. Tập thơ chan chứa tình cảm nhân đạo và một tinh thần lạc quan cách mạng – từ trong ngục tối, Người luôn nhìn ra ánh sáng, hướng đến tương lai:
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”
(Buổi sớm)
Nhật kí trong tù chủ yếu viết bằng thể thơ tứ tuyệt Đường luật, câu chữ rất cô đọng, hàm súc. Tập thơ giàu giá trị nghệ thuật, cách viết vừa cổ điển vừa hiện đại, nhiều tứ thơ độc đáo, nhiều hình ảnh gợi cảm, sáng tạo,...
Ngoài Nhật kí trong tù, còn có những bài thơ Người viết ở Việt Bắc từ năm 1941 đến 1945 và trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Thơ Hồ Chí Minh viết trong các giai đoạn trên gồm những bài thơ tuyên truyền vận động cách mạng (nhiều nhất là thời kì xây dựng mặt trận Việt Minh) và thơ trữ tình. Thơ trữ tình của Người hầu hết là thơ tứ tuyệt Đường luật, có các bài viết bằng tiếng Việt như Tức cảnh Pác Bó, Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Thăm lại Pác Bó, Không đề 2, Không đề 3,..., nhiều bài viết bằng chữ Hán như Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng), Tặng Bùi công (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn), Thu dạ (Đêm thu), Báo tiệp (Tin thắng trận), Đăng sơn (Lên núi),... Đây là những bài thơ thể hiện tình cảm sâu nặng của Hồ Chí Minh đối với đất nước, ca ngợi, động viên những con người kháng chiến. Những bài thơ này cũng thể hiện một tài năng lớn, một tâm hồn nghệ sĩ phong phú, tinh tế trước vẻ đẹp của tạo vật và tình người.
2. Một phong cách nghệ thuật đa dạng mà thống nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn các nhà báo trước khi cầm bút phải tự đặt câu hỏi: “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, “Thế thì viết cái gì?”, “Cách viết thế nào?”. Và chính toàn bộ sự nghiệp báo chí và văn học nghệ thuật của Người là bằng chứng hùng hồn cho quan điểm viết ấy.
Phong cách nghệ thuật đa dạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện ở đề tài, mục đích, nội dung, thể loại và cách viết rất khác nhau.
Từ những năm 20 của thế kỉ XX tại Pháp, Người đã viết truyện ngắn “Vi hành” và hàng loạt truyện, kí. Những tác phẩm này chủ yếu hướng đến công chúng Pháp nên viết bằng tiếng Pháp với văn phong hài hước, châm biếm kiểu Pháp. Đó là những áng văn xuôi theo phong cách châu Âu hiện đại.
Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ cho nhân dân Việt Nam mà còn cho cả thế giới, nói với cả kẻ thù đang âm mưu xâm lược đất nước ta. Vì thế, nội dung là lời tuyên bố hùng hồn về quyền bình đẳng, độc lập, tự do của một dân tộc, là quyết tâm giữ gìn độc lập, tự do của dân tộc cho nên lời văn hào sảng, mạnh mẽ, đanh thép và truyền cảm,...
Nhật kí trong tù là Hồ Chí Minh viết cho chính mình, nội dung ghi lại những sinh hoạt hằng ngày ở nhiều thời khắc khác nhau trong tù ngục. Tập thơ viết bằng chữ Hán theo thể thơ Đường luật rất cô đọng, hàm súc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi viết cho mình hoặc viết tặng những nhân sĩ, trí thức uyên thâm Hán học, Người làm các bài thơ Đường luật bằng chữ Hán như Nguyên tiêu, Tặng Võ công (Tặng cụ Võ Liêm Sơn), Tặng Bùi công, Báo tiệp,... Những bài thơ này là tiếng nói sâu sắc và tinh tế của tâm hồn Hồ Chí Minh: hồn nhiên, lạc quan mà thâm trầm; trẻ trung, hiện đại mà đậm đà phong vị cổ điển; đầy chí khí mà chan chứa tình người, nặng lòng lo việc nước mà vẫn dạt dào cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên,...
Trong thời kì tiền khởi nghĩa, để tuyên truyền vận động cách mạng rộng rãi cho các tầng lớp, nhất là dân nghèo không biết chữ, Người đã viết các bài ca bằng chữ Quốc ngữ, sử dụng châm ngôn, tục ngữ, ca dao, hò, vè nôm na, dễ thuộc, dễ nhớ như Bài ca du kích, Ca dân cày, Ca binh lính, Nhóm lửa, Con cáo và tổ ong,...
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa đa dạng vừa thống nhất. Thống nhất bởi tất cả sự nghiệp sáng tác của Người chủ yếu hướng đến mục đích lớn nhất là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân - điều mà Người từng tâm niệm: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”. Do mục đích ấy nên nội dung các sáng tác của Người chủ yếu tập trung vào đề tài “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Tính thống nhất trong phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh còn thể hiện ở hình thức, cách viết. Lối viết của Người bao giờ cũng ngắn gọn, trong sáng, giản dị, phù hợp với đối tượng; rất linh hoạt, sáng tạo trong việc sử dụng các thể loại, ngôn ngữ và bút pháp nghệ thuật đa dạng để có được hiệu quả biểu đạt cao nhất.
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho văn học cách mạng Việt Nam, nhiều tác phẩm của Người đã trở thành mẫu mực cho một số thể loại văn học như văn nghị luận, truyện, kí và thơ.
*
Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng dân tộc mà còn là Danh nhân văn hoá kiệt xuất. Người là lãnh tụ cách mạng, đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ văn của Người luôn gắn với sự nghiệp cách mạng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Thơ văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước và tâm hồn cao cả, giàu lòng nhân ái.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá đối với dân tộc Việt Nam, để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Sự nghiệp ấy vừa mang đậm phong cách Hồ Chí Minh, vừa thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt Nam.
(Nhóm biên soạn)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Sự phong phú, trong sự nghiệp văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trên nhiều phương diện. Xuất phát từ "ham muốn tột bậc" của Người là giải phóng dân tộc khỏi những thế lực áp bức, , nên văn chương đối với Người chính là một thứ chiến đấu sắc bén trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Vì thế, Người viết nhiều thể loại với bút pháp, phong cách, khác nhau.
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
...
II. Hồ Chí Minh - Nhà văn, nhà thơ lớn
1. Một sự nghiệp văn học lớn lao và phong phú
Sinh thời, Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ, nhưng thực tiễn toàn bộ sáng tác thơ văn của Người với hàng trăm tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau là một bằng chứng hùng hồn về một sự nghiệp văn học lớn lao.
Sự phong phú, đa dạng trong sự nghiệp văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trên nhiều phương diện. Xuất phát từ “ham muốn tột bậc” là đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh coi văn chương trước hết phải là vũ khí chiến đấu, có đối tượng và mục đích rõ ràng. Vì thế, Người viết bằng nhiều thể loại với những bút pháp và phong cách khác nhau; viết bằng nhiều ngôn ngữ, khi viết bằng tiếng Pháp, lúc viết bằng tiếng Hán, nhiều sáng tác bằng tiếng Việt (chữ Quốc ngữ),... Nổi bật lên trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh là các tác phẩm văn nghị luận, truyện và kí, thơ ca.
Văn nghị luận của Hồ Chí Minh gồm những tác phẩm chủ yếu nhằm mục đích đấu tranh chính trị, phục vụ cách mạng qua các chặng đường lịch sử. Từ những năm đầu của thế kỉ XX, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, bằng tiếng Pháp, Người đã viết rất nhiều bài báo chính luận đăng trên các tờ báo Người cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L'Humanité),... Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) đã vạch trần chính sách vô nhân đạo, tội ác và sự lừa dối của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa từ những bằng chứng xác thực, lí lẽ đanh thép, lời văn sắc bén,...
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập - một văn kiện lịch sử bất hủ, một tác phẩm nghị luận mẫu mực: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục,...
Trong các giai đoạn sau này, Hồ Chí Minh còn viết nhiều tác phẩm nghị luận nổi tiếng khác, đặc biệt là các bài viết trong những thời khắc lịch sử của dân tộc. Đó là Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Người viết nhằm kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa giành được; lời kêu gọi Không có gì quý hơn độc lập, tự do (1966), Người viết khi đế quốc Mỹ ồ ạt ném bom đánh phá miền Bắc. Cuối đời, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản Di chúc (1969) đầy ân tình, thiết tha, vừa thể hiện tầm nhìn sâu rộng vừa thể hiện tình yêu thương mênh mông vô tận với đồng bào, đồng chí,... Các tác phẩm này không chỉ là những văn kiện lịch sử quý giá mà còn là những áng văn nghị luận mẫu mực; nội dung đều là các vấn đề trọng đại, sâu sắc, lời văn hào hùng, tha thiết, có tác động mạnh mẽ đến trái tim và khối óc của hàng trăm triệu con người.
Truyện và kí dù chiếm số lượng không nhiều trong sự nghiệp văn học của Người nhưng cũng để lại nhiều thành tựu, mang rõ dấu ấn phong cách Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh.
Về truyện, có thể kể một số truyện ngắn ra đời vào những năm 1922 - 1925 được Người viết bằng tiếng Pháp như Pa-ri, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Con người biết mùi hun khói,... Đây là các tác phẩm văn chương hư cấu, thường nhân một sự kiện, sự việc, câu chuyện có thật, Người tưởng tượng và sáng tạo ra nhằm thể hiện tư tưởng, thái độ của mình. Chẳng hạn, nhân tin quốc vương nước Nam là Khải Định sắp làm “khách của nước Pháp”, Người viết các truyện Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”. Trước sự kiện nhà cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc (1925) ở Trung Quốc giải về giam ở Hoả Lò - Hà Nội và sắp bị xử bắn, còn Va-ren thì chuẩn bị sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, Người viết truyện Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu. Với các tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng hình ảnh biếm hoạ sắc sảo về ông vua bù nhìn Khải Định, tên thực dân Va-ren trơ tráo, giả dối và dựng lên hình tượng Phan Bội Châu uy nghi, lẫm liệt,... Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc rất cô đọng, tình huống độc đáo, cốt truyện sáng tạo, có sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú và lời văn linh hoạt, hóm hỉnh, sắc sảo.
Về kí, ngoài tác phẩm Nhật kí chìm tàu (1931), Hồ Chí Minh còn có tập hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963) ghi bút danh là T. Lan,... Qua tập hồi kí này, người đọc thấy hiện lên một “cái tôi” rất đỗi trẻ trung và hồn nhiên, giản dị; thể hiện một tình cảm chân thành, nồng hậu,...
Thơ ca là lĩnh vực mang lại các giá trị sáng tạo văn học nổi bật, thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Trước hết phải kể đến tác phẩm Nhật kí trong tù, tập thơ được Người viết bằng chữ Hán trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc ở tỉnh Quảng Tây từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943. Với 133 bài thơ, Nhật kí trong tù phản ánh tâm hồn, tình cảm nhân đạo, ý chí kiên cường và nhân cách cao đẹp của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng” trong hoàn cảnh cực khổ chốn lao tù. Nhật kí trong tù cũng là bức tranh hiện thực đầy cảnh bất công, tàn bạo được Người tái hiện một cách sinh động, chân thực nhằm tố cáo mạnh mẽ chế độ nhà tù của Quốc dân đảng. Tập thơ chan chứa tình cảm nhân đạo và một tinh thần lạc quan cách mạng – từ trong ngục tối, Người luôn nhìn ra ánh sáng, hướng đến tương lai:
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”
(Buổi sớm)
Nhật kí trong tù chủ yếu viết bằng thể thơ tứ tuyệt Đường luật, câu chữ rất cô đọng, hàm súc. Tập thơ giàu giá trị nghệ thuật, cách viết vừa cổ điển vừa hiện đại, nhiều tứ thơ độc đáo, nhiều hình ảnh gợi cảm, sáng tạo,...
Ngoài Nhật kí trong tù, còn có những bài thơ Người viết ở Việt Bắc từ năm 1941 đến 1945 và trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Thơ Hồ Chí Minh viết trong các giai đoạn trên gồm những bài thơ tuyên truyền vận động cách mạng (nhiều nhất là thời kì xây dựng mặt trận Việt Minh) và thơ trữ tình. Thơ trữ tình của Người hầu hết là thơ tứ tuyệt Đường luật, có các bài viết bằng tiếng Việt như Tức cảnh Pác Bó, Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Thăm lại Pác Bó, Không đề 2, Không đề 3,..., nhiều bài viết bằng chữ Hán như Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng), Tặng Bùi công (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn), Thu dạ (Đêm thu), Báo tiệp (Tin thắng trận), Đăng sơn (Lên núi),... Đây là những bài thơ thể hiện tình cảm sâu nặng của Hồ Chí Minh đối với đất nước, ca ngợi, động viên những con người kháng chiến. Những bài thơ này cũng thể hiện một tài năng lớn, một tâm hồn nghệ sĩ phong phú, tinh tế trước vẻ đẹp của tạo vật và tình người.
2. Một phong cách nghệ thuật đa dạng mà thống nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn các nhà báo trước khi cầm bút phải tự đặt câu hỏi: “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, “Thế thì viết cái gì?”, “Cách viết thế nào?”. Và chính toàn bộ sự nghiệp báo chí và văn học nghệ thuật của Người là bằng chứng hùng hồn cho quan điểm viết ấy.
Phong cách nghệ thuật đa dạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện ở đề tài, mục đích, nội dung, thể loại và cách viết rất khác nhau.
Từ những năm 20 của thế kỉ XX tại Pháp, Người đã viết truyện ngắn “Vi hành” và hàng loạt truyện, kí. Những tác phẩm này chủ yếu hướng đến công chúng Pháp nên viết bằng tiếng Pháp với văn phong hài hước, châm biếm kiểu Pháp. Đó là những áng văn xuôi theo phong cách châu Âu hiện đại.
Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ cho nhân dân Việt Nam mà còn cho cả thế giới, nói với cả kẻ thù đang âm mưu xâm lược đất nước ta. Vì thế, nội dung là lời tuyên bố hùng hồn về quyền bình đẳng, độc lập, tự do của một dân tộc, là quyết tâm giữ gìn độc lập, tự do của dân tộc cho nên lời văn hào sảng, mạnh mẽ, đanh thép và truyền cảm,...
Nhật kí trong tù là Hồ Chí Minh viết cho chính mình, nội dung ghi lại những sinh hoạt hằng ngày ở nhiều thời khắc khác nhau trong tù ngục. Tập thơ viết bằng chữ Hán theo thể thơ Đường luật rất cô đọng, hàm súc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi viết cho mình hoặc viết tặng những nhân sĩ, trí thức uyên thâm Hán học, Người làm các bài thơ Đường luật bằng chữ Hán như Nguyên tiêu, Tặng Võ công (Tặng cụ Võ Liêm Sơn), Tặng Bùi công, Báo tiệp,... Những bài thơ này là tiếng nói sâu sắc và tinh tế của tâm hồn Hồ Chí Minh: hồn nhiên, lạc quan mà thâm trầm; trẻ trung, hiện đại mà đậm đà phong vị cổ điển; đầy chí khí mà chan chứa tình người, nặng lòng lo việc nước mà vẫn dạt dào cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên,...
Trong thời kì tiền khởi nghĩa, để tuyên truyền vận động cách mạng rộng rãi cho các tầng lớp, nhất là dân nghèo không biết chữ, Người đã viết các bài ca bằng chữ Quốc ngữ, sử dụng châm ngôn, tục ngữ, ca dao, hò, vè nôm na, dễ thuộc, dễ nhớ như Bài ca du kích, Ca dân cày, Ca binh lính, Nhóm lửa, Con cáo và tổ ong,...
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa đa dạng vừa thống nhất. Thống nhất bởi tất cả sự nghiệp sáng tác của Người chủ yếu hướng đến mục đích lớn nhất là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân - điều mà Người từng tâm niệm: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”. Do mục đích ấy nên nội dung các sáng tác của Người chủ yếu tập trung vào đề tài “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Tính thống nhất trong phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh còn thể hiện ở hình thức, cách viết. Lối viết của Người bao giờ cũng ngắn gọn, trong sáng, giản dị, phù hợp với đối tượng; rất linh hoạt, sáng tạo trong việc sử dụng các thể loại, ngôn ngữ và bút pháp nghệ thuật đa dạng để có được hiệu quả biểu đạt cao nhất.
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho văn học cách mạng Việt Nam, nhiều tác phẩm của Người đã trở thành mẫu mực cho một số thể loại văn học như văn nghị luận, truyện, kí và thơ.
*
Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng dân tộc mà còn là Danh nhân văn hoá kiệt xuất. Người là lãnh tụ cách mạng, đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ văn của Người luôn gắn với sự nghiệp cách mạng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Thơ văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước và tâm hồn cao cả, giàu lòng nhân ái.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá đối với dân tộc Việt Nam, để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Sự nghiệp ấy vừa mang đậm phong cách Hồ Chí Minh, vừa thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt Nam.
(Nhóm biên soạn)
Thể loại nào dưới đây mang lại các giá trị sáng tạo văn học nổi bật và thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh?
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
...
II. Hồ Chí Minh - Nhà văn, nhà thơ lớn
1. Một sự nghiệp văn học lớn lao và phong phú
Sinh thời, Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ, nhưng thực tiễn toàn bộ sáng tác thơ văn của Người với hàng trăm tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau là một bằng chứng hùng hồn về một sự nghiệp văn học lớn lao.
Sự phong phú, đa dạng trong sự nghiệp văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trên nhiều phương diện. Xuất phát từ “ham muốn tột bậc” là đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh coi văn chương trước hết phải là vũ khí chiến đấu, có đối tượng và mục đích rõ ràng. Vì thế, Người viết bằng nhiều thể loại với những bút pháp và phong cách khác nhau; viết bằng nhiều ngôn ngữ, khi viết bằng tiếng Pháp, lúc viết bằng tiếng Hán, nhiều sáng tác bằng tiếng Việt (chữ Quốc ngữ),... Nổi bật lên trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh là các tác phẩm văn nghị luận, truyện và kí, thơ ca.
Văn nghị luận của Hồ Chí Minh gồm những tác phẩm chủ yếu nhằm mục đích đấu tranh chính trị, phục vụ cách mạng qua các chặng đường lịch sử. Từ những năm đầu của thế kỉ XX, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, bằng tiếng Pháp, Người đã viết rất nhiều bài báo chính luận đăng trên các tờ báo Người cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L'Humanité),... Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) đã vạch trần chính sách vô nhân đạo, tội ác và sự lừa dối của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa từ những bằng chứng xác thực, lí lẽ đanh thép, lời văn sắc bén,...
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập - một văn kiện lịch sử bất hủ, một tác phẩm nghị luận mẫu mực: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục,...
Trong các giai đoạn sau này, Hồ Chí Minh còn viết nhiều tác phẩm nghị luận nổi tiếng khác, đặc biệt là các bài viết trong những thời khắc lịch sử của dân tộc. Đó là Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Người viết nhằm kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa giành được; lời kêu gọi Không có gì quý hơn độc lập, tự do (1966), Người viết khi đế quốc Mỹ ồ ạt ném bom đánh phá miền Bắc. Cuối đời, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản Di chúc (1969) đầy ân tình, thiết tha, vừa thể hiện tầm nhìn sâu rộng vừa thể hiện tình yêu thương mênh mông vô tận với đồng bào, đồng chí,... Các tác phẩm này không chỉ là những văn kiện lịch sử quý giá mà còn là những áng văn nghị luận mẫu mực; nội dung đều là các vấn đề trọng đại, sâu sắc, lời văn hào hùng, tha thiết, có tác động mạnh mẽ đến trái tim và khối óc của hàng trăm triệu con người.
Truyện và kí dù chiếm số lượng không nhiều trong sự nghiệp văn học của Người nhưng cũng để lại nhiều thành tựu, mang rõ dấu ấn phong cách Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh.
Về truyện, có thể kể một số truyện ngắn ra đời vào những năm 1922 - 1925 được Người viết bằng tiếng Pháp như Pa-ri, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Con người biết mùi hun khói,... Đây là các tác phẩm văn chương hư cấu, thường nhân một sự kiện, sự việc, câu chuyện có thật, Người tưởng tượng và sáng tạo ra nhằm thể hiện tư tưởng, thái độ của mình. Chẳng hạn, nhân tin quốc vương nước Nam là Khải Định sắp làm “khách của nước Pháp”, Người viết các truyện Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”. Trước sự kiện nhà cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc (1925) ở Trung Quốc giải về giam ở Hoả Lò - Hà Nội và sắp bị xử bắn, còn Va-ren thì chuẩn bị sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, Người viết truyện Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu. Với các tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng hình ảnh biếm hoạ sắc sảo về ông vua bù nhìn Khải Định, tên thực dân Va-ren trơ tráo, giả dối và dựng lên hình tượng Phan Bội Châu uy nghi, lẫm liệt,... Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc rất cô đọng, tình huống độc đáo, cốt truyện sáng tạo, có sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú và lời văn linh hoạt, hóm hỉnh, sắc sảo.
Về kí, ngoài tác phẩm Nhật kí chìm tàu (1931), Hồ Chí Minh còn có tập hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963) ghi bút danh là T. Lan,... Qua tập hồi kí này, người đọc thấy hiện lên một “cái tôi” rất đỗi trẻ trung và hồn nhiên, giản dị; thể hiện một tình cảm chân thành, nồng hậu,...
Thơ ca là lĩnh vực mang lại các giá trị sáng tạo văn học nổi bật, thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Trước hết phải kể đến tác phẩm Nhật kí trong tù, tập thơ được Người viết bằng chữ Hán trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc ở tỉnh Quảng Tây từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943. Với 133 bài thơ, Nhật kí trong tù phản ánh tâm hồn, tình cảm nhân đạo, ý chí kiên cường và nhân cách cao đẹp của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng” trong hoàn cảnh cực khổ chốn lao tù. Nhật kí trong tù cũng là bức tranh hiện thực đầy cảnh bất công, tàn bạo được Người tái hiện một cách sinh động, chân thực nhằm tố cáo mạnh mẽ chế độ nhà tù của Quốc dân đảng. Tập thơ chan chứa tình cảm nhân đạo và một tinh thần lạc quan cách mạng – từ trong ngục tối, Người luôn nhìn ra ánh sáng, hướng đến tương lai:
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”
(Buổi sớm)
Nhật kí trong tù chủ yếu viết bằng thể thơ tứ tuyệt Đường luật, câu chữ rất cô đọng, hàm súc. Tập thơ giàu giá trị nghệ thuật, cách viết vừa cổ điển vừa hiện đại, nhiều tứ thơ độc đáo, nhiều hình ảnh gợi cảm, sáng tạo,...
Ngoài Nhật kí trong tù, còn có những bài thơ Người viết ở Việt Bắc từ năm 1941 đến 1945 và trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Thơ Hồ Chí Minh viết trong các giai đoạn trên gồm những bài thơ tuyên truyền vận động cách mạng (nhiều nhất là thời kì xây dựng mặt trận Việt Minh) và thơ trữ tình. Thơ trữ tình của Người hầu hết là thơ tứ tuyệt Đường luật, có các bài viết bằng tiếng Việt như Tức cảnh Pác Bó, Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Thăm lại Pác Bó, Không đề 2, Không đề 3,..., nhiều bài viết bằng chữ Hán như Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng), Tặng Bùi công (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn), Thu dạ (Đêm thu), Báo tiệp (Tin thắng trận), Đăng sơn (Lên núi),... Đây là những bài thơ thể hiện tình cảm sâu nặng của Hồ Chí Minh đối với đất nước, ca ngợi, động viên những con người kháng chiến. Những bài thơ này cũng thể hiện một tài năng lớn, một tâm hồn nghệ sĩ phong phú, tinh tế trước vẻ đẹp của tạo vật và tình người.
2. Một phong cách nghệ thuật đa dạng mà thống nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn các nhà báo trước khi cầm bút phải tự đặt câu hỏi: “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, “Thế thì viết cái gì?”, “Cách viết thế nào?”. Và chính toàn bộ sự nghiệp báo chí và văn học nghệ thuật của Người là bằng chứng hùng hồn cho quan điểm viết ấy.
Phong cách nghệ thuật đa dạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện ở đề tài, mục đích, nội dung, thể loại và cách viết rất khác nhau.
Từ những năm 20 của thế kỉ XX tại Pháp, Người đã viết truyện ngắn “Vi hành” và hàng loạt truyện, kí. Những tác phẩm này chủ yếu hướng đến công chúng Pháp nên viết bằng tiếng Pháp với văn phong hài hước, châm biếm kiểu Pháp. Đó là những áng văn xuôi theo phong cách châu Âu hiện đại.
Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ cho nhân dân Việt Nam mà còn cho cả thế giới, nói với cả kẻ thù đang âm mưu xâm lược đất nước ta. Vì thế, nội dung là lời tuyên bố hùng hồn về quyền bình đẳng, độc lập, tự do của một dân tộc, là quyết tâm giữ gìn độc lập, tự do của dân tộc cho nên lời văn hào sảng, mạnh mẽ, đanh thép và truyền cảm,...
Nhật kí trong tù là Hồ Chí Minh viết cho chính mình, nội dung ghi lại những sinh hoạt hằng ngày ở nhiều thời khắc khác nhau trong tù ngục. Tập thơ viết bằng chữ Hán theo thể thơ Đường luật rất cô đọng, hàm súc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi viết cho mình hoặc viết tặng những nhân sĩ, trí thức uyên thâm Hán học, Người làm các bài thơ Đường luật bằng chữ Hán như Nguyên tiêu, Tặng Võ công (Tặng cụ Võ Liêm Sơn), Tặng Bùi công, Báo tiệp,... Những bài thơ này là tiếng nói sâu sắc và tinh tế của tâm hồn Hồ Chí Minh: hồn nhiên, lạc quan mà thâm trầm; trẻ trung, hiện đại mà đậm đà phong vị cổ điển; đầy chí khí mà chan chứa tình người, nặng lòng lo việc nước mà vẫn dạt dào cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên,...
Trong thời kì tiền khởi nghĩa, để tuyên truyền vận động cách mạng rộng rãi cho các tầng lớp, nhất là dân nghèo không biết chữ, Người đã viết các bài ca bằng chữ Quốc ngữ, sử dụng châm ngôn, tục ngữ, ca dao, hò, vè nôm na, dễ thuộc, dễ nhớ như Bài ca du kích, Ca dân cày, Ca binh lính, Nhóm lửa, Con cáo và tổ ong,...
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa đa dạng vừa thống nhất. Thống nhất bởi tất cả sự nghiệp sáng tác của Người chủ yếu hướng đến mục đích lớn nhất là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân - điều mà Người từng tâm niệm: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”. Do mục đích ấy nên nội dung các sáng tác của Người chủ yếu tập trung vào đề tài “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Tính thống nhất trong phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh còn thể hiện ở hình thức, cách viết. Lối viết của Người bao giờ cũng ngắn gọn, trong sáng, giản dị, phù hợp với đối tượng; rất linh hoạt, sáng tạo trong việc sử dụng các thể loại, ngôn ngữ và bút pháp nghệ thuật đa dạng để có được hiệu quả biểu đạt cao nhất.
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho văn học cách mạng Việt Nam, nhiều tác phẩm của Người đã trở thành mẫu mực cho một số thể loại văn học như văn nghị luận, truyện, kí và thơ.
*
Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng dân tộc mà còn là Danh nhân văn hoá kiệt xuất. Người là lãnh tụ cách mạng, đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ văn của Người luôn gắn với sự nghiệp cách mạng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Thơ văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước và tâm hồn cao cả, giàu lòng nhân ái.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá đối với dân tộc Việt Nam, để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Sự nghiệp ấy vừa mang đậm phong cách Hồ Chí Minh, vừa thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt Nam.
(Nhóm biên soạn)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Nhật kí trong tù là một trong những tập thơ thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Tập thơ này được Người viết bằng chữ trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc ở tỉnh từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu năm , bao gồm bài thơ phản ánh tâm hồn, tình cảm nhân đạo, kiên cường và nhân cách của Người trong cảnh lao tù cực khổ.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
...
II. Hồ Chí Minh - Nhà văn, nhà thơ lớn
1. Một sự nghiệp văn học lớn lao và phong phú
Sinh thời, Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ, nhưng thực tiễn toàn bộ sáng tác thơ văn của Người với hàng trăm tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau là một bằng chứng hùng hồn về một sự nghiệp văn học lớn lao.
Sự phong phú, đa dạng trong sự nghiệp văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trên nhiều phương diện. Xuất phát từ “ham muốn tột bậc” là đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh coi văn chương trước hết phải là vũ khí chiến đấu, có đối tượng và mục đích rõ ràng. Vì thế, Người viết bằng nhiều thể loại với những bút pháp và phong cách khác nhau; viết bằng nhiều ngôn ngữ, khi viết bằng tiếng Pháp, lúc viết bằng tiếng Hán, nhiều sáng tác bằng tiếng Việt (chữ Quốc ngữ),... Nổi bật lên trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh là các tác phẩm văn nghị luận, truyện và kí, thơ ca.
Văn nghị luận của Hồ Chí Minh gồm những tác phẩm chủ yếu nhằm mục đích đấu tranh chính trị, phục vụ cách mạng qua các chặng đường lịch sử. Từ những năm đầu của thế kỉ XX, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, bằng tiếng Pháp, Người đã viết rất nhiều bài báo chính luận đăng trên các tờ báo Người cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L'Humanité),... Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) đã vạch trần chính sách vô nhân đạo, tội ác và sự lừa dối của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa từ những bằng chứng xác thực, lí lẽ đanh thép, lời văn sắc bén,...
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập - một văn kiện lịch sử bất hủ, một tác phẩm nghị luận mẫu mực: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục,...
Trong các giai đoạn sau này, Hồ Chí Minh còn viết nhiều tác phẩm nghị luận nổi tiếng khác, đặc biệt là các bài viết trong những thời khắc lịch sử của dân tộc. Đó là Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Người viết nhằm kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa giành được; lời kêu gọi Không có gì quý hơn độc lập, tự do (1966), Người viết khi đế quốc Mỹ ồ ạt ném bom đánh phá miền Bắc. Cuối đời, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản Di chúc (1969) đầy ân tình, thiết tha, vừa thể hiện tầm nhìn sâu rộng vừa thể hiện tình yêu thương mênh mông vô tận với đồng bào, đồng chí,... Các tác phẩm này không chỉ là những văn kiện lịch sử quý giá mà còn là những áng văn nghị luận mẫu mực; nội dung đều là các vấn đề trọng đại, sâu sắc, lời văn hào hùng, tha thiết, có tác động mạnh mẽ đến trái tim và khối óc của hàng trăm triệu con người.
Truyện và kí dù chiếm số lượng không nhiều trong sự nghiệp văn học của Người nhưng cũng để lại nhiều thành tựu, mang rõ dấu ấn phong cách Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh.
Về truyện, có thể kể một số truyện ngắn ra đời vào những năm 1922 - 1925 được Người viết bằng tiếng Pháp như Pa-ri, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Con người biết mùi hun khói,... Đây là các tác phẩm văn chương hư cấu, thường nhân một sự kiện, sự việc, câu chuyện có thật, Người tưởng tượng và sáng tạo ra nhằm thể hiện tư tưởng, thái độ của mình. Chẳng hạn, nhân tin quốc vương nước Nam là Khải Định sắp làm “khách của nước Pháp”, Người viết các truyện Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”. Trước sự kiện nhà cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc (1925) ở Trung Quốc giải về giam ở Hoả Lò - Hà Nội và sắp bị xử bắn, còn Va-ren thì chuẩn bị sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, Người viết truyện Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu. Với các tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng hình ảnh biếm hoạ sắc sảo về ông vua bù nhìn Khải Định, tên thực dân Va-ren trơ tráo, giả dối và dựng lên hình tượng Phan Bội Châu uy nghi, lẫm liệt,... Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc rất cô đọng, tình huống độc đáo, cốt truyện sáng tạo, có sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú và lời văn linh hoạt, hóm hỉnh, sắc sảo.
Về kí, ngoài tác phẩm Nhật kí chìm tàu (1931), Hồ Chí Minh còn có tập hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963) ghi bút danh là T. Lan,... Qua tập hồi kí này, người đọc thấy hiện lên một “cái tôi” rất đỗi trẻ trung và hồn nhiên, giản dị; thể hiện một tình cảm chân thành, nồng hậu,...
Thơ ca là lĩnh vực mang lại các giá trị sáng tạo văn học nổi bật, thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Trước hết phải kể đến tác phẩm Nhật kí trong tù, tập thơ được Người viết bằng chữ Hán trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc ở tỉnh Quảng Tây từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943. Với 133 bài thơ, Nhật kí trong tù phản ánh tâm hồn, tình cảm nhân đạo, ý chí kiên cường và nhân cách cao đẹp của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng” trong hoàn cảnh cực khổ chốn lao tù. Nhật kí trong tù cũng là bức tranh hiện thực đầy cảnh bất công, tàn bạo được Người tái hiện một cách sinh động, chân thực nhằm tố cáo mạnh mẽ chế độ nhà tù của Quốc dân đảng. Tập thơ chan chứa tình cảm nhân đạo và một tinh thần lạc quan cách mạng – từ trong ngục tối, Người luôn nhìn ra ánh sáng, hướng đến tương lai:
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”
(Buổi sớm)
Nhật kí trong tù chủ yếu viết bằng thể thơ tứ tuyệt Đường luật, câu chữ rất cô đọng, hàm súc. Tập thơ giàu giá trị nghệ thuật, cách viết vừa cổ điển vừa hiện đại, nhiều tứ thơ độc đáo, nhiều hình ảnh gợi cảm, sáng tạo,...
Ngoài Nhật kí trong tù, còn có những bài thơ Người viết ở Việt Bắc từ năm 1941 đến 1945 và trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Thơ Hồ Chí Minh viết trong các giai đoạn trên gồm những bài thơ tuyên truyền vận động cách mạng (nhiều nhất là thời kì xây dựng mặt trận Việt Minh) và thơ trữ tình. Thơ trữ tình của Người hầu hết là thơ tứ tuyệt Đường luật, có các bài viết bằng tiếng Việt như Tức cảnh Pác Bó, Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Thăm lại Pác Bó, Không đề 2, Không đề 3,..., nhiều bài viết bằng chữ Hán như Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng), Tặng Bùi công (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn), Thu dạ (Đêm thu), Báo tiệp (Tin thắng trận), Đăng sơn (Lên núi),... Đây là những bài thơ thể hiện tình cảm sâu nặng của Hồ Chí Minh đối với đất nước, ca ngợi, động viên những con người kháng chiến. Những bài thơ này cũng thể hiện một tài năng lớn, một tâm hồn nghệ sĩ phong phú, tinh tế trước vẻ đẹp của tạo vật và tình người.
2. Một phong cách nghệ thuật đa dạng mà thống nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn các nhà báo trước khi cầm bút phải tự đặt câu hỏi: “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, “Thế thì viết cái gì?”, “Cách viết thế nào?”. Và chính toàn bộ sự nghiệp báo chí và văn học nghệ thuật của Người là bằng chứng hùng hồn cho quan điểm viết ấy.
Phong cách nghệ thuật đa dạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện ở đề tài, mục đích, nội dung, thể loại và cách viết rất khác nhau.
Từ những năm 20 của thế kỉ XX tại Pháp, Người đã viết truyện ngắn “Vi hành” và hàng loạt truyện, kí. Những tác phẩm này chủ yếu hướng đến công chúng Pháp nên viết bằng tiếng Pháp với văn phong hài hước, châm biếm kiểu Pháp. Đó là những áng văn xuôi theo phong cách châu Âu hiện đại.
Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ cho nhân dân Việt Nam mà còn cho cả thế giới, nói với cả kẻ thù đang âm mưu xâm lược đất nước ta. Vì thế, nội dung là lời tuyên bố hùng hồn về quyền bình đẳng, độc lập, tự do của một dân tộc, là quyết tâm giữ gìn độc lập, tự do của dân tộc cho nên lời văn hào sảng, mạnh mẽ, đanh thép và truyền cảm,...
Nhật kí trong tù là Hồ Chí Minh viết cho chính mình, nội dung ghi lại những sinh hoạt hằng ngày ở nhiều thời khắc khác nhau trong tù ngục. Tập thơ viết bằng chữ Hán theo thể thơ Đường luật rất cô đọng, hàm súc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi viết cho mình hoặc viết tặng những nhân sĩ, trí thức uyên thâm Hán học, Người làm các bài thơ Đường luật bằng chữ Hán như Nguyên tiêu, Tặng Võ công (Tặng cụ Võ Liêm Sơn), Tặng Bùi công, Báo tiệp,... Những bài thơ này là tiếng nói sâu sắc và tinh tế của tâm hồn Hồ Chí Minh: hồn nhiên, lạc quan mà thâm trầm; trẻ trung, hiện đại mà đậm đà phong vị cổ điển; đầy chí khí mà chan chứa tình người, nặng lòng lo việc nước mà vẫn dạt dào cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên,...
Trong thời kì tiền khởi nghĩa, để tuyên truyền vận động cách mạng rộng rãi cho các tầng lớp, nhất là dân nghèo không biết chữ, Người đã viết các bài ca bằng chữ Quốc ngữ, sử dụng châm ngôn, tục ngữ, ca dao, hò, vè nôm na, dễ thuộc, dễ nhớ như Bài ca du kích, Ca dân cày, Ca binh lính, Nhóm lửa, Con cáo và tổ ong,...
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa đa dạng vừa thống nhất. Thống nhất bởi tất cả sự nghiệp sáng tác của Người chủ yếu hướng đến mục đích lớn nhất là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân - điều mà Người từng tâm niệm: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”. Do mục đích ấy nên nội dung các sáng tác của Người chủ yếu tập trung vào đề tài “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Tính thống nhất trong phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh còn thể hiện ở hình thức, cách viết. Lối viết của Người bao giờ cũng ngắn gọn, trong sáng, giản dị, phù hợp với đối tượng; rất linh hoạt, sáng tạo trong việc sử dụng các thể loại, ngôn ngữ và bút pháp nghệ thuật đa dạng để có được hiệu quả biểu đạt cao nhất.
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho văn học cách mạng Việt Nam, nhiều tác phẩm của Người đã trở thành mẫu mực cho một số thể loại văn học như văn nghị luận, truyện, kí và thơ.
*
Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng dân tộc mà còn là Danh nhân văn hoá kiệt xuất. Người là lãnh tụ cách mạng, đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ văn của Người luôn gắn với sự nghiệp cách mạng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Thơ văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước và tâm hồn cao cả, giàu lòng nhân ái.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá đối với dân tộc Việt Nam, để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Sự nghiệp ấy vừa mang đậm phong cách Hồ Chí Minh, vừa thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt Nam.
(Nhóm biên soạn)
Bên cạnh việc thể hiện tâm hồn, nhân cách Hồ Chí Minh, tập thơ Nhật kí trong tù còn là bức tranh hiện thực phản ánh
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
...
II. Hồ Chí Minh - Nhà văn, nhà thơ lớn
1. Một sự nghiệp văn học lớn lao và phong phú
Sinh thời, Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ, nhưng thực tiễn toàn bộ sáng tác thơ văn của Người với hàng trăm tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau là một bằng chứng hùng hồn về một sự nghiệp văn học lớn lao.
Sự phong phú, đa dạng trong sự nghiệp văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trên nhiều phương diện. Xuất phát từ “ham muốn tột bậc” là đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh coi văn chương trước hết phải là vũ khí chiến đấu, có đối tượng và mục đích rõ ràng. Vì thế, Người viết bằng nhiều thể loại với những bút pháp và phong cách khác nhau; viết bằng nhiều ngôn ngữ, khi viết bằng tiếng Pháp, lúc viết bằng tiếng Hán, nhiều sáng tác bằng tiếng Việt (chữ Quốc ngữ),... Nổi bật lên trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh là các tác phẩm văn nghị luận, truyện và kí, thơ ca.
Văn nghị luận của Hồ Chí Minh gồm những tác phẩm chủ yếu nhằm mục đích đấu tranh chính trị, phục vụ cách mạng qua các chặng đường lịch sử. Từ những năm đầu của thế kỉ XX, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, bằng tiếng Pháp, Người đã viết rất nhiều bài báo chính luận đăng trên các tờ báo Người cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L'Humanité),... Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) đã vạch trần chính sách vô nhân đạo, tội ác và sự lừa dối của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa từ những bằng chứng xác thực, lí lẽ đanh thép, lời văn sắc bén,...
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập - một văn kiện lịch sử bất hủ, một tác phẩm nghị luận mẫu mực: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục,...
Trong các giai đoạn sau này, Hồ Chí Minh còn viết nhiều tác phẩm nghị luận nổi tiếng khác, đặc biệt là các bài viết trong những thời khắc lịch sử của dân tộc. Đó là Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Người viết nhằm kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa giành được; lời kêu gọi Không có gì quý hơn độc lập, tự do (1966), Người viết khi đế quốc Mỹ ồ ạt ném bom đánh phá miền Bắc. Cuối đời, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản Di chúc (1969) đầy ân tình, thiết tha, vừa thể hiện tầm nhìn sâu rộng vừa thể hiện tình yêu thương mênh mông vô tận với đồng bào, đồng chí,... Các tác phẩm này không chỉ là những văn kiện lịch sử quý giá mà còn là những áng văn nghị luận mẫu mực; nội dung đều là các vấn đề trọng đại, sâu sắc, lời văn hào hùng, tha thiết, có tác động mạnh mẽ đến trái tim và khối óc của hàng trăm triệu con người.
Truyện và kí dù chiếm số lượng không nhiều trong sự nghiệp văn học của Người nhưng cũng để lại nhiều thành tựu, mang rõ dấu ấn phong cách Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh.
Về truyện, có thể kể một số truyện ngắn ra đời vào những năm 1922 - 1925 được Người viết bằng tiếng Pháp như Pa-ri, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Con người biết mùi hun khói,... Đây là các tác phẩm văn chương hư cấu, thường nhân một sự kiện, sự việc, câu chuyện có thật, Người tưởng tượng và sáng tạo ra nhằm thể hiện tư tưởng, thái độ của mình. Chẳng hạn, nhân tin quốc vương nước Nam là Khải Định sắp làm “khách của nước Pháp”, Người viết các truyện Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”. Trước sự kiện nhà cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc (1925) ở Trung Quốc giải về giam ở Hoả Lò - Hà Nội và sắp bị xử bắn, còn Va-ren thì chuẩn bị sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, Người viết truyện Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu. Với các tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng hình ảnh biếm hoạ sắc sảo về ông vua bù nhìn Khải Định, tên thực dân Va-ren trơ tráo, giả dối và dựng lên hình tượng Phan Bội Châu uy nghi, lẫm liệt,... Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc rất cô đọng, tình huống độc đáo, cốt truyện sáng tạo, có sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú và lời văn linh hoạt, hóm hỉnh, sắc sảo.
Về kí, ngoài tác phẩm Nhật kí chìm tàu (1931), Hồ Chí Minh còn có tập hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963) ghi bút danh là T. Lan,... Qua tập hồi kí này, người đọc thấy hiện lên một “cái tôi” rất đỗi trẻ trung và hồn nhiên, giản dị; thể hiện một tình cảm chân thành, nồng hậu,...
Thơ ca là lĩnh vực mang lại các giá trị sáng tạo văn học nổi bật, thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Trước hết phải kể đến tác phẩm Nhật kí trong tù, tập thơ được Người viết bằng chữ Hán trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc ở tỉnh Quảng Tây từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943. Với 133 bài thơ, Nhật kí trong tù phản ánh tâm hồn, tình cảm nhân đạo, ý chí kiên cường và nhân cách cao đẹp của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng” trong hoàn cảnh cực khổ chốn lao tù. Nhật kí trong tù cũng là bức tranh hiện thực đầy cảnh bất công, tàn bạo được Người tái hiện một cách sinh động, chân thực nhằm tố cáo mạnh mẽ chế độ nhà tù của Quốc dân đảng. Tập thơ chan chứa tình cảm nhân đạo và một tinh thần lạc quan cách mạng – từ trong ngục tối, Người luôn nhìn ra ánh sáng, hướng đến tương lai:
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”
(Buổi sớm)
Nhật kí trong tù chủ yếu viết bằng thể thơ tứ tuyệt Đường luật, câu chữ rất cô đọng, hàm súc. Tập thơ giàu giá trị nghệ thuật, cách viết vừa cổ điển vừa hiện đại, nhiều tứ thơ độc đáo, nhiều hình ảnh gợi cảm, sáng tạo,...
Ngoài Nhật kí trong tù, còn có những bài thơ Người viết ở Việt Bắc từ năm 1941 đến 1945 và trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Thơ Hồ Chí Minh viết trong các giai đoạn trên gồm những bài thơ tuyên truyền vận động cách mạng (nhiều nhất là thời kì xây dựng mặt trận Việt Minh) và thơ trữ tình. Thơ trữ tình của Người hầu hết là thơ tứ tuyệt Đường luật, có các bài viết bằng tiếng Việt như Tức cảnh Pác Bó, Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Thăm lại Pác Bó, Không đề 2, Không đề 3,..., nhiều bài viết bằng chữ Hán như Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng), Tặng Bùi công (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn), Thu dạ (Đêm thu), Báo tiệp (Tin thắng trận), Đăng sơn (Lên núi),... Đây là những bài thơ thể hiện tình cảm sâu nặng của Hồ Chí Minh đối với đất nước, ca ngợi, động viên những con người kháng chiến. Những bài thơ này cũng thể hiện một tài năng lớn, một tâm hồn nghệ sĩ phong phú, tinh tế trước vẻ đẹp của tạo vật và tình người.
2. Một phong cách nghệ thuật đa dạng mà thống nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn các nhà báo trước khi cầm bút phải tự đặt câu hỏi: “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, “Thế thì viết cái gì?”, “Cách viết thế nào?”. Và chính toàn bộ sự nghiệp báo chí và văn học nghệ thuật của Người là bằng chứng hùng hồn cho quan điểm viết ấy.
Phong cách nghệ thuật đa dạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện ở đề tài, mục đích, nội dung, thể loại và cách viết rất khác nhau.
Từ những năm 20 của thế kỉ XX tại Pháp, Người đã viết truyện ngắn “Vi hành” và hàng loạt truyện, kí. Những tác phẩm này chủ yếu hướng đến công chúng Pháp nên viết bằng tiếng Pháp với văn phong hài hước, châm biếm kiểu Pháp. Đó là những áng văn xuôi theo phong cách châu Âu hiện đại.
Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ cho nhân dân Việt Nam mà còn cho cả thế giới, nói với cả kẻ thù đang âm mưu xâm lược đất nước ta. Vì thế, nội dung là lời tuyên bố hùng hồn về quyền bình đẳng, độc lập, tự do của một dân tộc, là quyết tâm giữ gìn độc lập, tự do của dân tộc cho nên lời văn hào sảng, mạnh mẽ, đanh thép và truyền cảm,...
Nhật kí trong tù là Hồ Chí Minh viết cho chính mình, nội dung ghi lại những sinh hoạt hằng ngày ở nhiều thời khắc khác nhau trong tù ngục. Tập thơ viết bằng chữ Hán theo thể thơ Đường luật rất cô đọng, hàm súc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi viết cho mình hoặc viết tặng những nhân sĩ, trí thức uyên thâm Hán học, Người làm các bài thơ Đường luật bằng chữ Hán như Nguyên tiêu, Tặng Võ công (Tặng cụ Võ Liêm Sơn), Tặng Bùi công, Báo tiệp,... Những bài thơ này là tiếng nói sâu sắc và tinh tế của tâm hồn Hồ Chí Minh: hồn nhiên, lạc quan mà thâm trầm; trẻ trung, hiện đại mà đậm đà phong vị cổ điển; đầy chí khí mà chan chứa tình người, nặng lòng lo việc nước mà vẫn dạt dào cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên,...
Trong thời kì tiền khởi nghĩa, để tuyên truyền vận động cách mạng rộng rãi cho các tầng lớp, nhất là dân nghèo không biết chữ, Người đã viết các bài ca bằng chữ Quốc ngữ, sử dụng châm ngôn, tục ngữ, ca dao, hò, vè nôm na, dễ thuộc, dễ nhớ như Bài ca du kích, Ca dân cày, Ca binh lính, Nhóm lửa, Con cáo và tổ ong,...
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa đa dạng vừa thống nhất. Thống nhất bởi tất cả sự nghiệp sáng tác của Người chủ yếu hướng đến mục đích lớn nhất là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân - điều mà Người từng tâm niệm: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”. Do mục đích ấy nên nội dung các sáng tác của Người chủ yếu tập trung vào đề tài “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Tính thống nhất trong phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh còn thể hiện ở hình thức, cách viết. Lối viết của Người bao giờ cũng ngắn gọn, trong sáng, giản dị, phù hợp với đối tượng; rất linh hoạt, sáng tạo trong việc sử dụng các thể loại, ngôn ngữ và bút pháp nghệ thuật đa dạng để có được hiệu quả biểu đạt cao nhất.
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho văn học cách mạng Việt Nam, nhiều tác phẩm của Người đã trở thành mẫu mực cho một số thể loại văn học như văn nghị luận, truyện, kí và thơ.
*
Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng dân tộc mà còn là Danh nhân văn hoá kiệt xuất. Người là lãnh tụ cách mạng, đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ văn của Người luôn gắn với sự nghiệp cách mạng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Thơ văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước và tâm hồn cao cả, giàu lòng nhân ái.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá đối với dân tộc Việt Nam, để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Sự nghiệp ấy vừa mang đậm phong cách Hồ Chí Minh, vừa thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt Nam.
(Nhóm biên soạn)
Tập thơ Nhật kí trong tù chủ yếu được viết theo thể thơ nào dưới đây?
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
...
II. Hồ Chí Minh - Nhà văn, nhà thơ lớn
1. Một sự nghiệp văn học lớn lao và phong phú
Sinh thời, Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ, nhưng thực tiễn toàn bộ sáng tác thơ văn của Người với hàng trăm tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau là một bằng chứng hùng hồn về một sự nghiệp văn học lớn lao.
Sự phong phú, đa dạng trong sự nghiệp văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trên nhiều phương diện. Xuất phát từ “ham muốn tột bậc” là đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh coi văn chương trước hết phải là vũ khí chiến đấu, có đối tượng và mục đích rõ ràng. Vì thế, Người viết bằng nhiều thể loại với những bút pháp và phong cách khác nhau; viết bằng nhiều ngôn ngữ, khi viết bằng tiếng Pháp, lúc viết bằng tiếng Hán, nhiều sáng tác bằng tiếng Việt (chữ Quốc ngữ),... Nổi bật lên trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh là các tác phẩm văn nghị luận, truyện và kí, thơ ca.
Văn nghị luận của Hồ Chí Minh gồm những tác phẩm chủ yếu nhằm mục đích đấu tranh chính trị, phục vụ cách mạng qua các chặng đường lịch sử. Từ những năm đầu của thế kỉ XX, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, bằng tiếng Pháp, Người đã viết rất nhiều bài báo chính luận đăng trên các tờ báo Người cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L'Humanité),... Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) đã vạch trần chính sách vô nhân đạo, tội ác và sự lừa dối của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa từ những bằng chứng xác thực, lí lẽ đanh thép, lời văn sắc bén,...
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập - một văn kiện lịch sử bất hủ, một tác phẩm nghị luận mẫu mực: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục,...
Trong các giai đoạn sau này, Hồ Chí Minh còn viết nhiều tác phẩm nghị luận nổi tiếng khác, đặc biệt là các bài viết trong những thời khắc lịch sử của dân tộc. Đó là Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Người viết nhằm kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa giành được; lời kêu gọi Không có gì quý hơn độc lập, tự do (1966), Người viết khi đế quốc Mỹ ồ ạt ném bom đánh phá miền Bắc. Cuối đời, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản Di chúc (1969) đầy ân tình, thiết tha, vừa thể hiện tầm nhìn sâu rộng vừa thể hiện tình yêu thương mênh mông vô tận với đồng bào, đồng chí,... Các tác phẩm này không chỉ là những văn kiện lịch sử quý giá mà còn là những áng văn nghị luận mẫu mực; nội dung đều là các vấn đề trọng đại, sâu sắc, lời văn hào hùng, tha thiết, có tác động mạnh mẽ đến trái tim và khối óc của hàng trăm triệu con người.
Truyện và kí dù chiếm số lượng không nhiều trong sự nghiệp văn học của Người nhưng cũng để lại nhiều thành tựu, mang rõ dấu ấn phong cách Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh.
Về truyện, có thể kể một số truyện ngắn ra đời vào những năm 1922 - 1925 được Người viết bằng tiếng Pháp như Pa-ri, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Con người biết mùi hun khói,... Đây là các tác phẩm văn chương hư cấu, thường nhân một sự kiện, sự việc, câu chuyện có thật, Người tưởng tượng và sáng tạo ra nhằm thể hiện tư tưởng, thái độ của mình. Chẳng hạn, nhân tin quốc vương nước Nam là Khải Định sắp làm “khách của nước Pháp”, Người viết các truyện Lời than vãn của bà Trưng Trắc, “Vi hành”. Trước sự kiện nhà cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc (1925) ở Trung Quốc giải về giam ở Hoả Lò - Hà Nội và sắp bị xử bắn, còn Va-ren thì chuẩn bị sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, Người viết truyện Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu. Với các tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng hình ảnh biếm hoạ sắc sảo về ông vua bù nhìn Khải Định, tên thực dân Va-ren trơ tráo, giả dối và dựng lên hình tượng Phan Bội Châu uy nghi, lẫm liệt,... Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc rất cô đọng, tình huống độc đáo, cốt truyện sáng tạo, có sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú và lời văn linh hoạt, hóm hỉnh, sắc sảo.
Về kí, ngoài tác phẩm Nhật kí chìm tàu (1931), Hồ Chí Minh còn có tập hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963) ghi bút danh là T. Lan,... Qua tập hồi kí này, người đọc thấy hiện lên một “cái tôi” rất đỗi trẻ trung và hồn nhiên, giản dị; thể hiện một tình cảm chân thành, nồng hậu,...
Thơ ca là lĩnh vực mang lại các giá trị sáng tạo văn học nổi bật, thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Trước hết phải kể đến tác phẩm Nhật kí trong tù, tập thơ được Người viết bằng chữ Hán trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc ở tỉnh Quảng Tây từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943. Với 133 bài thơ, Nhật kí trong tù phản ánh tâm hồn, tình cảm nhân đạo, ý chí kiên cường và nhân cách cao đẹp của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng” trong hoàn cảnh cực khổ chốn lao tù. Nhật kí trong tù cũng là bức tranh hiện thực đầy cảnh bất công, tàn bạo được Người tái hiện một cách sinh động, chân thực nhằm tố cáo mạnh mẽ chế độ nhà tù của Quốc dân đảng. Tập thơ chan chứa tình cảm nhân đạo và một tinh thần lạc quan cách mạng – từ trong ngục tối, Người luôn nhìn ra ánh sáng, hướng đến tương lai:
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”
(Buổi sớm)
Nhật kí trong tù chủ yếu viết bằng thể thơ tứ tuyệt Đường luật, câu chữ rất cô đọng, hàm súc. Tập thơ giàu giá trị nghệ thuật, cách viết vừa cổ điển vừa hiện đại, nhiều tứ thơ độc đáo, nhiều hình ảnh gợi cảm, sáng tạo,...
Ngoài Nhật kí trong tù, còn có những bài thơ Người viết ở Việt Bắc từ năm 1941 đến 1945 và trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Thơ Hồ Chí Minh viết trong các giai đoạn trên gồm những bài thơ tuyên truyền vận động cách mạng (nhiều nhất là thời kì xây dựng mặt trận Việt Minh) và thơ trữ tình. Thơ trữ tình của Người hầu hết là thơ tứ tuyệt Đường luật, có các bài viết bằng tiếng Việt như Tức cảnh Pác Bó, Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Thăm lại Pác Bó, Không đề 2, Không đề 3,..., nhiều bài viết bằng chữ Hán như Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng), Tặng Bùi công (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn), Thu dạ (Đêm thu), Báo tiệp (Tin thắng trận), Đăng sơn (Lên núi),... Đây là những bài thơ thể hiện tình cảm sâu nặng của Hồ Chí Minh đối với đất nước, ca ngợi, động viên những con người kháng chiến. Những bài thơ này cũng thể hiện một tài năng lớn, một tâm hồn nghệ sĩ phong phú, tinh tế trước vẻ đẹp của tạo vật và tình người.
2. Một phong cách nghệ thuật đa dạng mà thống nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn các nhà báo trước khi cầm bút phải tự đặt câu hỏi: “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, “Thế thì viết cái gì?”, “Cách viết thế nào?”. Và chính toàn bộ sự nghiệp báo chí và văn học nghệ thuật của Người là bằng chứng hùng hồn cho quan điểm viết ấy.
Phong cách nghệ thuật đa dạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện ở đề tài, mục đích, nội dung, thể loại và cách viết rất khác nhau.
Từ những năm 20 của thế kỉ XX tại Pháp, Người đã viết truyện ngắn “Vi hành” và hàng loạt truyện, kí. Những tác phẩm này chủ yếu hướng đến công chúng Pháp nên viết bằng tiếng Pháp với văn phong hài hước, châm biếm kiểu Pháp. Đó là những áng văn xuôi theo phong cách châu Âu hiện đại.
Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ cho nhân dân Việt Nam mà còn cho cả thế giới, nói với cả kẻ thù đang âm mưu xâm lược đất nước ta. Vì thế, nội dung là lời tuyên bố hùng hồn về quyền bình đẳng, độc lập, tự do của một dân tộc, là quyết tâm giữ gìn độc lập, tự do của dân tộc cho nên lời văn hào sảng, mạnh mẽ, đanh thép và truyền cảm,...
Nhật kí trong tù là Hồ Chí Minh viết cho chính mình, nội dung ghi lại những sinh hoạt hằng ngày ở nhiều thời khắc khác nhau trong tù ngục. Tập thơ viết bằng chữ Hán theo thể thơ Đường luật rất cô đọng, hàm súc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi viết cho mình hoặc viết tặng những nhân sĩ, trí thức uyên thâm Hán học, Người làm các bài thơ Đường luật bằng chữ Hán như Nguyên tiêu, Tặng Võ công (Tặng cụ Võ Liêm Sơn), Tặng Bùi công, Báo tiệp,... Những bài thơ này là tiếng nói sâu sắc và tinh tế của tâm hồn Hồ Chí Minh: hồn nhiên, lạc quan mà thâm trầm; trẻ trung, hiện đại mà đậm đà phong vị cổ điển; đầy chí khí mà chan chứa tình người, nặng lòng lo việc nước mà vẫn dạt dào cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên,...
Trong thời kì tiền khởi nghĩa, để tuyên truyền vận động cách mạng rộng rãi cho các tầng lớp, nhất là dân nghèo không biết chữ, Người đã viết các bài ca bằng chữ Quốc ngữ, sử dụng châm ngôn, tục ngữ, ca dao, hò, vè nôm na, dễ thuộc, dễ nhớ như Bài ca du kích, Ca dân cày, Ca binh lính, Nhóm lửa, Con cáo và tổ ong,...
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa đa dạng vừa thống nhất. Thống nhất bởi tất cả sự nghiệp sáng tác của Người chủ yếu hướng đến mục đích lớn nhất là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân - điều mà Người từng tâm niệm: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”. Do mục đích ấy nên nội dung các sáng tác của Người chủ yếu tập trung vào đề tài “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Tính thống nhất trong phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh còn thể hiện ở hình thức, cách viết. Lối viết của Người bao giờ cũng ngắn gọn, trong sáng, giản dị, phù hợp với đối tượng; rất linh hoạt, sáng tạo trong việc sử dụng các thể loại, ngôn ngữ và bút pháp nghệ thuật đa dạng để có được hiệu quả biểu đạt cao nhất.
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho văn học cách mạng Việt Nam, nhiều tác phẩm của Người đã trở thành mẫu mực cho một số thể loại văn học như văn nghị luận, truyện, kí và thơ.
*
Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng dân tộc mà còn là Danh nhân văn hoá kiệt xuất. Người là lãnh tụ cách mạng, đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ văn của Người luôn gắn với sự nghiệp cách mạng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Thơ văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước và tâm hồn cao cả, giàu lòng nhân ái.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá đối với dân tộc Việt Nam, để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Sự nghiệp ấy vừa mang đậm phong cách Hồ Chí Minh, vừa thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt Nam.
(Nhóm biên soạn)
Chọn bài thơ không được viết bằng thể thơ tứ tuyệt Đường luật và chữ Hán trong những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới đây?
NGẮM TRĂNG
* Phiên âm:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương liêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
* Dịch nghĩa:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.
* Dịch thơ:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011)
***
LAI TÂN
* Phiên âm:
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
* Dịch nghĩa:
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.
* Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sách đã dẫn)
Hai bài thơ Ngắm trăng và Lai Tân được trích từ tập thơ nào dưới đây?
NGẮM TRĂNG
* Phiên âm:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương liêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
* Dịch nghĩa:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.
* Dịch thơ:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011)
***
LAI TÂN
* Phiên âm:
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
* Dịch nghĩa:
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.
* Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sách đã dẫn)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói đến điểm chung về thể thơ của hai bài thơ Ngắm trăng và Lai Tân?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Có giọng thơ mỉa mai, trào phúng. |
|
b) Viết bằng chữ Quốc ngữ, theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. |
|
c) Được triển khai theo luật bằng. |
|
d) Viết bằng chữ Hán, theo thể thơ tứ tuyệt Đường luật. |
|
NGẮM TRĂNG
* Phiên âm:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương liêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
* Dịch nghĩa:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.
* Dịch thơ:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011)
Bài thơ Ngắm trăng được sáng tác trong hoàn cảnh Người ngắm trăng khi đang
NGẮM TRĂNG
* Phiên âm:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương liêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
* Dịch nghĩa:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.
* Dịch thơ:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011)
Nối bố cục của bài thơ Ngắm trăng với nội dung tương ứng.
NGẮM TRĂNG
* Phiên âm:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương liêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
* Dịch nghĩa:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.
* Dịch thơ:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Tâm trạng của thi nhân khi đứng trước cảnh đẹp của thiên nhiên cho thấy thi nhân là một người rất yêu, và quý mến vầng trăng; đồng thời đó cũng là người có tâm hồn , tinh tế và đậm chất .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
NGẮM TRĂNG
* Phiên âm:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương liêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
* Dịch nghĩa:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.
* Dịch thơ:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011)
Trong hai dòng thơ cuối trong bài thơ Ngắm trăng, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì?
NGẮM TRĂNG
* Phiên âm:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương liêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
* Dịch nghĩa:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.
* Dịch thơ:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về "chất thép" trong bài thơ Ngắm trăng?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Thể hiện qua tâm hồn giao cảm với thiên nhiên. |
|
b) Bộc lộ gián tiếp trong bài thơ. |
|
c) Bộc lộ trực tiếp trong bài thơ. |
|
d) Thể hiện qua khát vọng vượt ngục, tiến đến tự do. |
|
LAI TÂN
* Phiên âm:
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
* Dịch nghĩa:
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.
* Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sách đã dẫn)
Giọng thơ của bài thơ Lai Tân có đặc điểm gì?
LAI TÂN
* Phiên âm:
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
* Dịch nghĩa:
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.
* Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sách đã dẫn)
Trong ba dòng thơ đầu của bài thơ Lai Tân, tác giả đã không đề cập đến chức quan nào dưới đây?
LAI TÂN
* Phiên âm:
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
* Dịch nghĩa:
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.
* Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sách đã dẫn)
Nối bố cục của bài thơ Lai Tân với nội dung tương ứng.
LAI TÂN
* Phiên âm:
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
* Dịch nghĩa:
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.
* Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sách đã dẫn)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Có thể nói, tứ thơ của Lai Tân vô cùng : Cuộc sống ở Lai Tân vốn đầy rẫy những chuyện nhưng với thì dường như chẳng có chuyện gì. Chính tứ thơ này đã làm bật lên trào phúng, châm biếm, mỉa mai.
LAI TÂN
* Phiên âm:
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
* Dịch nghĩa:
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.
* Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sách đã dẫn)
Mâu thuẫn được tác giả thể hiện trong tác phẩm Lai Tân là mâu thuẫn giữa
LAI TÂN
* Phiên âm:
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
* Dịch nghĩa:
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.
* Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
NAM TRÂN dịch
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sách đã dẫn)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
So sánh "chất thép" trong bài thơ Ngắm trăng với bài thơ Lai Tân, ta có thể nhận thấy rằng "chất thép" trong thơ của Người đa dạng, khi thì xuất hiện , thể hiện qua khát khao được với tự nhiên và tinh thần lạc quan chốn ngục tù; khi lại xuất hiện với giọng thơ như lên án, tố cáo và kết tội thối nát, tham lam.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây