Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Văn bản "Phân tích bài thơ Việt Bắc" được viết bởi tác giả nào dưới đây?
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
- GS.TS Nguyễn Văn Hạnh sinh ngày 1 tháng 1 năm , mất ngày 19 tháng 11 năm , hưởng thọ tuổi.
- Ông là một trong những người và tham gia biên soạn bộ giáo trình "Cơ sở lý luận văn học" - một trong công trình lý luận văn học đầu tiên vận dụng các nguyên lý, khái niệm do các học giả đưa ra để xây dựng bộ giáo trình "Lý luận văn học" của Việt Nam, giải thích những vấn đề trong lịch sử văn học ở nước ta.
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về tác giả Nguyễn Văn Hạnh?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Từng du học và bảo vệ luận văn thạc sĩ tại Đại học Ngôn ngữ Mát-xcơ-va. |
|
b) Xuất thân trong một gia đình trung lưu, trí thức ở Hà Nội. |
|
c) Từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các Ban ngành, trường Đại học. |
|
d) Có quê quán ở xã Điện Thọ, tỉnh Quảng Nam. |
|
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Văn bản "Phân tích bài thơ Việt Bắc" thuộc kiểu văn bản , cụ thể là nghị luận . Bài viết sử dụng phương thức biểu đạt chủ yếu là nghị luận nhằm làm sáng tỏ được tác giả đưa ra.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại dó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Nối bố cục của bài viết với nội dung tương ứng của từng phần.
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tỉnh nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Mục đích của bài phân tích là
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Luận đề của bài viết "Phân tích bài thơ Việt Bắc" được nêu ở phần nào?
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại dó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Ở luận điểm 1 - Những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ "Việt Bắc", tác giả bài viết đã không đưa ra lí lẽ nào dưới đây?
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về lối đối đáp "mình" - "ta" trong bài phân tích?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Thể hiện sự thống nhất, độc lập, không thể chuyển hóa giữa kẻ ở và người đi. |
|
b) Là lối đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, thường gặp trong văn học dân gian. |
|
c) Đại diện cho người đi (chiến sĩ cách mạng) và kẻ ở (cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc). |
|
d) Có hình thức là lối đối đáp nhưng thực chất là sự độc thoại bên trong của người đi. |
|
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Chọn những dẫn chứng chứng minh cho lí lẽ "ta" và "mình" không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hóa lẫn nhau trong những dẫn chứng dưới đây.
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Theo tác bài viết, Tố Hữu thường chú ý đến cách quen thuộc, gần gũi với cách cảm, cách nghĩ của quần chúng lao động, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ và cổ điển. Chính từ cơ sở này, Tố Hữu đã , đổi mới về cách diễn đạt, về hình ảnh và thơ để phù hợp với thực tế cuộc sống cùng tư tưởng cần thể hiện.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Nét đặc sắc nhất của tác giả khi phân tích bài thơ trong phần (3) của văn bản là việc tác giả
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về bức chân dung Bác Hồ theo phân tích của tác giả Nguyễn Văn Hạnh?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Được thể hiện bằng những màu sắc tươi sáng, rực rỡ. |
|
b) Mang tinh thần hội họa cổ điển thời Tống của Trung Quốc. |
|
c) Là một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, giàu sức gợi. |
|
d) Toát lên chất giản dị, ung dung, thanh thoát của Bác. |
|
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Nhận định nào dưới đây là đúng khi nói về vị trí của bài thơ "Việt Bắc" theo quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Hạnh?
Phân tích bài thơ Việt Bắc
(1) Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. [...]
(2) Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa thuỷ chung như bạn mình:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.
Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:
Mình về mình có nhớ ta
Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:
Mình đi, mình có nhớ mình
Hoặc:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]
Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mà
Mình về, có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.
Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khỏi cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương. Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]
Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.
Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ như:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.
Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.
Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.
(3) Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước trên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.
Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.
(Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)
Chọn nét đặc sắc về nghệ thuật không được tác giả thể hiện trong bài phân tích.
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây