Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Bài viết thuộc kiểu văn bản nào?
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là gì?
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Các thông tin trong văn bản được trình bày theo trình tự nào?
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Trong phần mở đầu, tác giả đã cho biết những thông tin gì về cuốn sách? (Chọn 4 đáp án)
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Việc đưa ra một số thông tin về tác phẩm trong đoạn mở đầu có tác dụng gì?
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Nhân vật Hoài Văn Hầu là ai?
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản là gì?
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Câu chuyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng bắt đầu bằng sự việc nào?
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Vì sao Hoài Văn Hầu lại bóp nát quả cam mà vua ban?
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Trong trận đấu với Toa Đô, Quốc Toản được giao nhiệm vụ gì?
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Trong phần (2), tác giả đã trình bày thông tin theo trình tự nào?
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG – TÁC PHẨM KHÔNG BAO GIỜ CŨ DÀNH CHO THIẾU NHI
(1) Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản được xem là tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc như Vũ Như Tô, Bắc Sơn (kịch), Đêm hội Long Trì, An Tư (tiểu thuyết),…
Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một thiên truyện giáo dục nhân cách, nâng cao hiểu biết của trẻ em về lịch sử nước nhà, góp phần bồi đắp lòng yêu nước cho các em.
Bìa sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng
(2) Câu chuyện mở đầu bằng giấc mơ bắt sống được Sài Thung – một tên sứ nhà Nguyên hống hách – của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã ý thức được bổn phận của một đấng nam nhi thời loạn, ngay trong cả giấc mơ cũng mong được giết giặc giúp nước. Chính vì thế, khi chú chàng là Chiêu Thành Vương đến họp bàn việc đánh giặc cùng với vua Trần Nhân Tông và các vị vương hầu khác mà không cho Hoài Văn theo, chàng đã một mình phi ngựa để đến kịp. Đến nơi, dù lòng như lửa đốt, chàng vẫn nhẫn nại đứng chờ. Dưới bến phấp phới những lá cờ hiệu của các vương hầu. Hoài Văn đăm đăm nhìn thuyền của Hưng Võ Vương, Hưng Trí Vương, Hưng Hiếu Vương,… là các con trai của Hưng Đạo Vương cũng có mặt. Chính việc “những người em họ” chỉ “hơn Hoài Văn dăm sáu tuổi” mà được tham dự họp bàn việc nước với nhà vua càng làm chàng thêm nôn nóng. Trong thoáng qua, chàng có suy nghĩ muốn xô ngã mấy người lính Thánh Dực để chạy xuống nơi quan quân đang bàn bạc nhưng lại sợ tội chém đầu. Càng nghĩ, tâm can Quốc Toản càng như có lửa đang thiêu đốt. Cuối cùng, không nhẫn nhịn được nữa, chàng quyết định “thôi thì liều một chết vậy” và xô mấy người lính, xăm xăm xuống bến, liều mình để được nói câu: "Xin đánh!" với nhà vua. Lời Quốc Toản rất hợp ý vua và Hưng Đạo Vương nhưng vua vẫn xem chàng như một đứa trẻ, có lòng song chưa đủ sức, chưa thể làm nên đại sự. Vua ban cho Hoài Văn quả cam quý, bảo chàng về phụng dưỡng mẹ già. Lệnh vua khó cãi song Hoài Văn không khỏi thất vọng, chàng đã bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào. Từ thất vọng, Hoài Văn quyết tâm tự mình rèn luyện, chiêu binh đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước, cũng để chứng minh chàng không phải là một đứa trẻ con hữu dũng vô mưu. Chàng hạ quyết tâm trên chính bến Binh Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta.".
Nói là làm, Trần Quốc Toản trở về quê hỏi ý mẹ và khi được mẹ chấp thuận, ngay lập tức chàng bắt tay vào rèn luyện. Người chú là Chiêu Thành Vương khi biết được lòng quyết tâm của cháu cũng ủng hộ, lại được sự giúp sức của người tướng già, đội binh của Hoài Văn không lâu sau đó đã có được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng trang lứa với chàng, nhanh nhẹn, không bận lòng việc vợ con và vô cùng thiện chiến.
Khi đã có đội quân của riêng mình, Quốc Toản thẳng tiến truy tìm quân giặc. Chàng cùng sáu trăm chiến sĩ giương cao lá cờ thắm mang sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" do chính tay mẹ chàng thêu. Đó là những nét chữ “quang minh chính đại như ban ngày”, như “lời thề quyết liệt", "làm cho quân sĩ phấn khởi”, “kẻ địch kinh hồn". ...
Sau khi kết nghĩa anh em với Nguyễn Lộc ở trại Ma Lục, đội quân của Trần Quốc Toản đã có trận chiến đấu đầu tiên với quân Nguyên. Tiếng tăm về chàng tướng trẻ tài giỏi với lá cờ thêu sáu chữ vàng ngày càng vang xa. Khi Chiêu Thành Vương vì đuổi theo tên phản quốc Trần Ích Tắc mà vô tình rơi vào vòng vây của quân địch, Trần Quốc Toản đã xuất hiện ứng cứu. Chiêu Thành Vương không thể ngờ chàng tướng trẻ vang danh kia là cháu ruột của mình, trong sự bất ngờ ấy còn xen lẫn cả niềm tự hào.
Được triều đình công nhận, Quốc Toản về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, chờ thời cơ phản công quân địch. Tuổi trẻ nóng nảy, chàng nhiều lần vì không thể nhẫn nại, muốn bỏ lên Ma Lục hợp quân cùng Nguyễn Lộc, đánh một trận kinh hoàng. May mắn là bên Quốc Toản luôn có vị tướng già trung thành khuyên ngăn. Cùng với lời dạy dỗ của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Quốc Toản tiếp tục nghiên cứu binh pháp, rèn luyện võ thuật. Cũng trong thời gian này, hai chữ “Sát Thát” được chàng khắc trên cánh tay, xé da thịt mà in sâu vào tận xương cốt, nung nấu chí căm hờn từng ngày.
Cuối cùng thời cơ cũng đến, Hưng Đạo Vương quyết định cử Chiêu Văn Vương lãnh binh xuất quân, Hoài Văn xin theo và sau khi thử lòng chàng, Hưng Đạo Vương đồng ý. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc đời Hoài Văn, không giống trận chiến trước đó, lần này tên giặc mà chàng phải đối đầu là Toa Đô – tên tướng giỏi nhất của quân Nguyên.
Quốc Toản được Chiêu Văn Vương cử làm tướng tiên phong, dụ quân địch vào bẫy. Khi quân giặc mất cảnh giác xuôi thuyền trên con sông không một bóng người thì quân Hoài Văn tiến lên, cả đoàn thuyền chỉ chừng bốn, năm chục chiếc giăng hàng ngang, dũng mãnh xông thẳng về phía đoàn thuyền chiến của quân địch. Trước một Toa Đô cao lớn, mặt mày hung hãn. Hoài Văn không hề nao núng. Khi Toa Đô dùng chuỳ sắt giáng xuống đầu chàng. “Hoài Văn choáng váng, hai chân loạng choạng, và cả cái thuyền suýt nữa lật nhào” nhưng chàng quyết không lùi bước. Lần thứ hai chạm trán với Toa Đô, chàng đã dùng hết sức nhưng vẫn không giết được hắn. Lần thứ ba, khi Toa Đô vẫn mải đánh đằng mũi, chàng nhảy lên thuyền giặc, xông tới, đá phốc vào cánh tay cầm chuỳ của hắn khiến vũ khí lợi hại nhất của tên tướng giặc rơi xuống sông. Nhưng sau khi tung cú đá vào tay Toa Đô, Hoài Văn mất thăng bằng ngã xuống. Tên tướng giặc vung gươm định giết chàng, may mà có viên tướng già xả thân đỡ kịp. Toa Đô bỏ chạy. Sau đó, nghe theo lời viên tướng già, chàng nhờ người chăm sóc cho ông, còn mình thì dẫn đội quân sáu trăm trai tráng hào kiệt đi đuổi bắt Toa Đô. “Qua rừng, qua núi, qua đèo, qua sông, lá cờ thêu sáu chữ dẫn Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt đi mãi, đi mãi tới những nơi nào còn bóng quân Nguyên...”. […]
(3) Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã thể hiện một bức tranh lịch sử hoành tráng, tái hiện bối cảnh và khí thế hào hùng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên lần thứ hai để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta.
(Theo sachhaynendoc.net, 23-5-2019)
Người anh hùng Trần Quốc Toản được khắc họa như thế nào trong tác phẩm?
Bằng sức tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo dồi dào, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn với các sự kiện, chi tiết đặc sắc, ấn tượng. Tác phẩm đã khắc hoạ số lượng nhân vật đông đảo, trong đó nổi bật là nhân vật trung tâm Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Từ những chi tiết rất ít ỏi còn để lại trong tư liệu lịch sử, bằng tài năng và tâm huyết, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã khắc hoạ chân thực, sinh động chân dung của Trần Quốc Toản, một thiếu niên tuổi trẻ, chí cao, giàu lòng yêu nước, mang tinh thần, hảo khí của Thánh Gióng đánh giặc Ân xưa. Ngôn ngữ trong tác phẩm vừa cổ kính, trang nhã, vừa giản dị, tự nhiên. Giọng văn hào sảng, tưng bừng, nhiệt huyết.
Nội dung chính của đoạn trên là gì?
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây