Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Tuồng là loại hình sân khấu
- cổ điển
- truyền thống
- hiện đại
- chợ
- cung đình
- dân gian
- hài
- bi kịch
- bi hài
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Tuồng cung đình viết về đề tài với vua, đánh giặc , bảo vệ vương triều; có âm hưởng , giàu kịch tính, mâu thuẫn , quyết liệt giữa hai phe trung- , – xấu, …
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Chọn từ ngữ thích hợp để điền vào chỗ trống.
Tuồng hài viết về các đề tài
- sinh hoạt
- giáo dục
- đời sống
- xã hội
- hôn nhân
- gia đình
- vua chúa
- bình dân
- quý tộc
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về nghệ thuật tuồng?
Kịch bản tuồng có: cốt truyện, nhân vật, lời nói, bối cảnh truyện, thơ, yếu tố nghị luận. |
|
Kịch bản tuồng có: cốt truyện, nhân vật, lời thoại, chỉ dẫn về bối cảnh, trang phục, hoạt động trên sân khấu, ... |
|
Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn từ, âm nhạc, vũ đạo, hội họa và các trò diễn dân gian. |
|
Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn từ, âm nhạc, đạo cụ, hội họa, sân khấu được trang trí theo lối cổ điển. |
|
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Sắp xếp lại trình tự các sự kiện của vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến.
- Nghêu, Huyện Trìa, Đề Hầu cùng xuất đầu lộ diện và bẽ mặt.
- Thị Hến hẹn Nghêu, Huyện Trìa và Đề Hầu tối đến nhà.
- Khi Nghêu đang tán tỉnh Thị Hến, lần lượt Đề Hầu và Huyện Trìa xuất hiện, Nghêu phải trốn vào gầm phản.
- Ốc và Ngao rủ nhau ăn trộm nhà phú hộ Trùm Sò rồi bán cho Thị Hến.
- Thị Hến bị giải lên huyện và được xử thắng kiện.
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Bấm chọn những chỉ dẫn sân khấu xuất hiện trong tác phẩm.
Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào.
Tiếng Đề Hầu kêu cửa.
Từ gầm giường bò ra.
Huyện Trìa tới.
Đề Hầu trốn, ông Huyện vào.
Lồm cồm bò ra.
Đề Hầu lổm ngổm bò dậy.
Đề Hầu chui vào tủ áo.
Ông Huyện trốn xuống gầm phản.
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Những yếu tố chỉ dẫn trong văn bản có tác dụng gì? (Chọn nhiều đáp án)
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Nối thân phận của các nhân vật với tính cách của họ.
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Đề tài của vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến là những người đàn ông
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Tác phẩm Nghêu, Sò, Ốc, Hến thuộc loại tuồng nào?
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Nhân vật Thị Hến là người phụ nữ như thế nào?
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về nội dung của văn bản Mắc mưu Thị Hến?
(Nhấp vào dòng để chọn đúng / sai)Phê phán quan lại, những người có quyền lực, địa vị xã hội nhưng lại không giữ đúng chuẩn mực của mình. |
|
Phê phán Thị Hến khi dám lập mưu để lừa lọc, làm bẽ mặt những người có quyền lực và vị thế xã hội. |
|
Ca ngợi sự bản lĩnh, thông minh của Thị Hến khi lập mưu để trừng trị những kẻ có quyền, có địa vị xã hội nhưng lại ham mê nữ sắc. |
|
Thể hiện sự thương cảm đối với những người đàn ông khi bị Thị Hến làm cho bẽ mặt. |
|
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Điểm chung của những người đàn ông trong đoạn trích là
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Chọn những chi tiết tạo nên tiếng cười cho đoạn trích.
Mắc mưu Thị Hến
LỚP 19 [...]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu,
Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy... cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HẾN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chi lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chỉ quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề dứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chi chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang
Sẽ bảy tình tự.
ĐỀ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi (hử)?
THỊ HẾN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chừ) Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HẾN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài của)
Viên ngoại diêu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ớ mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU: (Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quả gấp,
Đêm tối tăm đàng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HẾN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ!)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ,
Hay tới nhà mà ve bà góa;
Đã xuất gia, phá giới làm vơ,
Thời luật pháp xử chi cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy)
Nói làm chi việc rối,
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời dạy rất minh, chờ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chi loại!
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Đoạn trích Mắc mưu Thị Hến để lại cho em những ấn tượng là
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây