Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Đề tham khảo cuối học kì I - Đề số 10 SVIP
(4 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:
(Lược một đoạn: Đăm Săn cùng tôi tớ vào rừng chặt cây thần.)
Tôi tớ: “Cây xờ-múc, cây xờ-mun, những cây gốc không thấy, ngọn không có, những cây đã sinh ra Hơ Nhị, Hơ Bhị đó ông ạ. Đó là cây xờ-múc ở phía đông nhà, là cây pơ-lang ở phía tây hiên, những cây đã sinh ra Hơ Nhị, Hơ Bhị đó ông ạ. Đó là những cây gốc trong suối, thân trong thung, bóng rợp cả một vùng, tên gọi là gì không rõ. Gốc cây người đi quanh phải một năm. Cành cây chim chuyền phải một tháng. Tán cây chim bay hết một hơi. Gốc cây trong suối, thân cây trong thung, cây cao không cao, thấp không thấp, đủ chọc đến trời. Gốc cây trong suối, thân cây trong thung, đó là cây Tông Lông vốn có tự xưa. Thân do trời trồng, gốc do trời vun, tự nó vực dậy, tự nó vươn lên. Đó là một cây cành lá xum xuê, một cây của vực thẳm khe sâu, gãy phía nào không rõ, ngã phía nào không hay. Cây thần đó ông ạ.”
Đăm Săn: “Bớ các con, vậy thì ta hạ cây này nào. Ai gãy rìu, hay rèn ngay rìu. Ai gãy chà gạc, hãy rèn ngay chà gạc.”
(Lược một đoạn: Hơ Nhị, Hơ Bhị sau nhiều ngày chờ đợi, quyết định vào rừng tìm Đăm Săn.)
Đến lúc họ tới được nơi ở của Đăm Săn thì họ thấy cây bị chặt đã rung lên.
Hơ Nhị: “Ơ nuê, ơ nuê! Sao nuê lại làm như vậy? Đó là cây xờ-múc ở phía đông nhà, là cây pơ-lang ở phía tây hiên, những cây sinh ra bà xưa, ông cũ của chúng tôi đó. Nếu nuê cứ phăm phăm chặt như vậy, chúng tôi sẽ chết mất. Nuê sẽ ăn gan bò trong thau, ăn gan trâu trong mâm, uống rượu ché tuk, ché tang một mình một cần. Thôi nuê ở lại, chúng tôi về đây.”
Hơ Nhị, Hơ Bhị đứng nhìn Đăm Săn. Chàng vẫn hăm hở chặt, trông chàng cứ như đang trong ngày hội giết lợn giết trâu, ăn đông uống vui mừng mùa khô năm mới vậy.
Đăm Săn: “Bớ các con, bớ các con! Hãy dũi như lợn, hãy báng như dê, hãy tới tấp vung tay búa tay rìu như chớp giật trong đêm tối.”
Tôi tớ: “Ối ông ơi, ối ông ơi! Gốc cây trong suối, thân cây trong thung, cây như muốn gãy. Gốc trong suối, thân trong khe, cây đang lung lay muốn gãy rồi ông ạ.”
Đăm Săn: “Cây lung lay muốn gãy nhưng gốc chưa đứt. Bớ tất cả làng ta, hãy cứ dũi như lợn, cứ báng như dê, hãy cứ tới tấp vung tay búa tay rìu như chớp giật trong đêm tối cho ta!”
Dân làng chặt thì cầm đèn sáp. Đăm Săn chặt thì cầm đuốc. Bóng cây tối như đêm. Cây đang đu đưa nhè nhẹ, rồi lắc lư từ gốc đến ngọn. Nó muốn gãy. Hơ Nhị, Hơ Bhị thấy vậy bỏ chạy. Hai chị em sợ quýnh, muốn chạy ra xa, những rồi cứ quấn lấy cây mà chạy. Cây xà xuống đầu hai người.
Đăm Săn: “Ơ Hơ Nhị, ơ Hơ Bhị, chạy tránh đi nhanh.”
Hơ Nhị, Hơ Bhị chạy phía tây, cây ngã theo phía tây. Chạy phía đông, cây ngã theo phía đông. Hai chị em chạy vào vùng Mnông, cây ngả theo vào vùng Mnông. Chạy xuống vùng Bih, cây ngã theo xuống vùng Bih. Chạy ra vùng Adham, cây cũng ngả theo ra vùng Adham.
Đăm Săn: “Ơ Hơ Nhị, ơ Hơ Bhị, chạy đường về làng.”
Hơ Nhị, Hơ Bhị liền chạy theo đường về làng… Hai chị em về gần đến làng thì cây sà xuống quá đầu. Họ vào đến làng thì cây lao xuống. Họ vào tới cửa thì cây ầm ầm sụp đổ, tiếng dội đến trời xanh. Cây cối khắp nơi đều gãy theo. Rừng gần rừng xa đều tan tác. Các cây cổ thụ cũng gãy hết, cành toác ra như bị bão giật, thân gục xuống như bị lốc xô. Hai chị em bị vật lăn ra giữa nhà, bị quật ngửa ra gần cửa. Hơ Nhị thì nằm ở đây, váy tuột đằng váy, áo tuột đằng áo. Hơ Bhị vào đến nhà trong thì lăn ra chết ở cửa buồng. Còn Đăm Săn từ lúc ấy cũng chạy theo sau. Tóc xổ đằng tóc, khăn tuột mặc khăn, thấy váy nhặt váy, thấy áo nhặt áo đem về. Anh chàng chạy suốt, vừa chạy vừa khóc. Về đến nhà, thấy Hơ Nhị nằm chết giữa nhà, liền bế Hơ Nhị vào buồng. Vào đến buồng lại thấy Hơ Bhị nằm chết ở cửa buồng liền đỡ luôn Hơ Bhị lên đùi. Thế là một bên đùi anh chàng đỡ Hơ Bhị, còn một bên đùi thì anh chàng đỡ Hơ Nhị. Tôi trai tớ gái trong nhà có bao nhiêu người đều hớt hải chạy đến xem hai người chị em bị cây đánh khác nào hồn đã rơi mất trong suối, vía đã lạc mất trong rừng. Mọi người oà lên khóc.
Tôi tớ: “Ối anh ơi, ối anh ơi! Hai chị chúng tôi chết hết cả rồi. Chúng tôi ở với ai bây giờ.”
(Lược một đoạn: Đăm Săn khóc thương vợ thâu đêm suốt sáng. Rồi chàng căn dặn mọi người lo ma chay chu đáo, còn chàng sẽ lên trời để gặp ông Trời.)
Ông Trời: “Cháu lên có việc gì đấy, cháu?”
Đăm Săn đứng lặng thinh không nói không rằng. Ông Trời chìa thuốc mời, tức thì chàng tóm lấy đầu ông.
Đăm Săn: “Tôi chém ông đây này, ông ơi!”
Ông Trời: “Chuyện gì mà cháu muốn chém ông vậy cháu?”
Đăm Săn: “Chuyện gì mà tôi muốn chém ông à? Chuyện tôi kêu tôi gọi, ông không thưa. Chuyện tôi khóc tôi than, ông không nghe. Chuyện rượu tôi đem cúng, lợn trâu tôi đem giết để làm lễ, mà cổng chốt ông không mở, cổng sắt ông vẫn đóng chặt. Ông ơi, ông hãy nhìn thằng Đăm Săn cháu ông đây này, nước mũi ròng đầy cả chén hoa, nước mắt rỏ ròng đầy cả bát sứ, lênh láng khắp chiếu chăn. Ối ông ơi, vợ cháu chết mất rồi. Người vợ nấu cơm đơm canh, người vợ dệt khố dệt áo cháu chết mất rồi! Chính ông là người đã treo ching với char, trộn dầu với sơn, xe duyên chắp mối vợ chồng cháu. Chính ông đã ép ngựa phải chịu cương, ép trâu phải chịu thừng, ép duyên trai với gái. Cháu không ưng không chịu thì ông hăm cháu phải hốt phân ngựa phân bò cho Hơ Nhị, Hơ Bhị. Ông bảo cháu chỉ có lấy Hơ Nhị, Hơ Bhị mới trở nên một tù trưởng giàu có, ching lắm char nhiều. Vậy giữa lúc ching cháu đang đổi, char cháu đang sắm, tôi trai tớ gái cháu đang có này, ai là người nấu cơm canh, ai là người dệt khố, dệt áo cho cháu đây, ông?”
Ông Trời: “Ơ cháu! Vậy thì cháu hãy lấy ngải kpo, ngải kpun đem mài trong ba năm, đem tắm trong ba sáng cho Hơ Nhị, Hơ Bhị.”
Đăm Săn: “Cháu còn làm như vậy để làm gì nữa hả ông? Đã chết rồi thì sao còn đứng dậy được? Đã rữa ra rồi thì sao còn sống lại được, sao mặt mày còn được như cũ, thân hình còn được như xưa. Biết chọn váy áo, xuyến vòng như các cô gái còn son nữa chứ?”
Ông Trời: “Vậy thì cháu lấy củ nén cháu phun vào lỗ tai, cháu lấy gừng cháu phun vào lỗ mũi. Chạng vạng tối cháu ra làm phép ở ngoài sàn sân.”
Thế là vì duyên vì số, Hơ Nhị, Hơ Bhị đã lúa mục cỏ nát, bị ma quỷ bắt đi, nay lại được ông Trời cho sống lại.
(Trích Sử thi Đăm Săn)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.
Câu 2. Vì sao sau khi Đăm Săn đốn hạ cây thần, chị em Hơ Nhị, Hơ Bhị lại chết?
Câu 3. Chỉ ra một chi tiết kì ảo trong văn bản và phân tích tác dụng của chi tiết kì ảo đó.
Câu 4. Tóm tắt văn bản trên bằng những sự kiện chính và nhận xét về cốt truyện của văn bản.
Câu 5. Hành động quyết đốn hạ cây thần và bắt vạ ông Trời của Đăm Săn cho thấy chàng là người như thế nào? Những hành động ấy thể hiện điều gì ở con người thời đó?
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản: Tự sự.
Câu 2.
Vì đó là cái cây thần gắn với sinh mệnh của hai chị em Hơ Nhị, Hơ Bhị.
Câu 3.
– HS chỉ ra một chi tiết kì ảo trong văn bản: Chẳng hạn như chi tiết về cái cây thần với những đặc điểm kì lạ; chi tiết chị em Hơ Nhị, Hơ Bhị chạy về hướng nào là cây đổ về hướng đó; chi tiết cây thần đổ các cây cổ thụ khác cũng đổ theo; chi tiết Đăm Săn lên trời bắt vạ ông Trời.
– HS phân tích tác dụng của chi tiết kì ảo đó trong văn bản. Mỗi chi tiết đều có những ý nghĩa riêng của nó, ở đây bên trước khi phân tích ý nghĩa riêng của các chi tiết kì ảo, HS cần chỉ ra được những tác dụng chung nhất của các chi tiết kì ảo đối với văn bản: Giúp cho văn bản thêm sinh động, hấp dẫn.
Câu 4.
– HS tóm tắt được văn bản qua những sự kiện chính:
+ Sự kiện 1: Đăm Săn cùng tôi tớ vào rừng chặt cây thần.
+ Sự kiện 2: Cây thần đổ, chị em Hơ Nhị, Hơ Bhị chết.
+ Sự kiện 3: Đăm Săn bắt vạ ông Trời, hai người vợ của chàng sống lại.
– HS nhận xét được về cốt truyện: Các sự kiện được triển khai theo trình tự thời gian tuyến tính, các sự kiện có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Câu 5.
– Hành động của Đăm Săn cho thấy chàng là người quyết đoán, dũng cảm, có khát vọng chinh phục, làm chủ tự nhiên.
– Hành động của Đăm Săn cho thấy khát vọng chinh phục, làm chủ tự nhiên của con người thời đó.
Câu 1. (2 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật Đăm Săn trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Câu 2. (4 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) thuyết phục người thân của em từ bỏ thói quen đánh giá người khác qua vẻ bề ngoài.
Hướng dẫn giải:
Câu 1. (2 điểm)
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn
– Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn.
– Thí sinh có thể trình bày theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích nhân vật Đăm Săn trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận
– Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
+ Đăm Săn quyết tâm đốn hạ cây thần dù biết nó liên kết sinh mệnh với hai người vợ của mình.
+ Sau khi vợ chết thật, chàng lên trời bắt vạ ông Trời để hai người vợ được sống lại.
=> Đăm Săn là người anh hùng, là người tù trưởng đại diện cho cộng đồng nên chàng mang trong mình sự kiên định, quyết tâm, không chịu khuất phục trước tự nhiên.
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau
– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: Lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2. (4 điểm)
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài
Xác định đúng yêu cầu của kiểu bài: Nghị luận xã hội.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Thuyết phục người thân của em từ bỏ thói quen đánh giá người khác qua vẻ bề ngoài.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận
– Xác định được các ý chính của bài viết.
– Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục 3 phần của bài văn nghị luận:
* Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm của cá nhân về vấn đề.
* Thân bài: Triển khai vấn đề nghị luận:
+ Thực trạng: Việc đánh giá người khác thông qua vẻ bề ngoài ngày càng trở nên phổ biến. (HS tìm dữ liệu, dẫn chứng cụ thể để bài viết thêm sâu sắc, giàu sức thuyết phục.)
+ Biểu hiện: Nhanh chóng đưa ra kết luận về một ai đó chỉ thông qua những biểu hiện bên ngoài của họ mà bỏ qua quá trình tiếp xúc, tìm hiểu kĩ lưỡng.
+ Nguyên nhân:
++ Cái nhìn phiến diện.
++ Thói quy chụp, gắn mác.
++ Những định kiến vốn có trong xã hội.
+ Hệ quả:
++ Cái nhìn sai lệch về đối phương.
++ Người bị đánh giá bị tổn thương về tinh thần.
++ …
+ Giải pháp: Mỗi cá nhân cần học cách chấp nhận, tôn trọng sự khác biệt; phê phán thói quy chụp và mạnh mẽ vượt lên những định kiến để khẳng định giá trị của bản thân.
+ Bàn luận: Đôi khi sự đánh giá của mọi người giúp cho chúng ta nhận ra cái sai, cái chưa tốt của bản thân, từ đó giúp chúng ta tự điều chỉnh để hoàn thiện hơn. Do đó, khi đứng trước những sự đánh giá, chúng ta cũng cần có tinh thần cầu thị, học cách lắng nghe, tôn trọng những lời góp ý và đặc biệt là cần có tư duy phản biện để có những nhận thức đúng đắn trong mọi tình huống.
* Kết bài: Khái quát vấn đề nghị luận.
d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau
– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: Lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.