Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Tự luận (10 điểm) SVIP
(0.5 điểm)
Văn bản kể về sự việc gì?
Bài đọc:Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]
Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.
Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào[4],
Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.
Đội trời, đạp đất ở đời,
Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].
Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,
Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bây giờ nghe tiếng má đào,
Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”
Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,
Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”
Nghe lời vừa ý, gật đầu,
Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”
Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],
Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân[15],
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].
Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)
[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.
[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.
[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.
[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.
[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.
[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.
[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.
[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.
[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.
[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương.
[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.
[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.
[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.
[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.
[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.
[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.
Hướng dẫn giải:
Văn bản kể về sự việc Từ Hải tìm gặp Thúy Kiều, thương cho cảnh ngộ và say mê trước tài sắc vẹn toàn của Kiều nên cảm mến mà chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ.
(0.5 điểm)
Liệt kê một số điển tích, điển cố trong văn bản.
Bài đọc:Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]
Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.
Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào[4],
Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.
Đội trời, đạp đất ở đời,
Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].
Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,
Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bây giờ nghe tiếng má đào,
Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”
Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,
Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”
Nghe lời vừa ý, gật đầu,
Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”
Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],
Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân[15],
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].
Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)
[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.
[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.
[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.
[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.
[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.
[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.
[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.
[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.
[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.
[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương.
[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.
[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.
[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.
[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.
[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.
[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.
Hướng dẫn giải:
Một số điển tích, điển cố trong văn bản là: Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo; mắt xanh; Tấn Dương; Sánh phượng, cưỡi rồng.
(1.0 điểm)
Liệt kê những từ ngữ, hình ảnh mà Nguyễn Du sử dụng để chỉ và miêu tả nhân vật Từ Hải trong văn bản. Từ đó, nêu nhận xét của em về thái độ của tác giả dành cho nhân vật này.
Bài đọc:Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]
Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.
Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào[4],
Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.
Đội trời, đạp đất ở đời,
Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].
Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,
Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bây giờ nghe tiếng má đào,
Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”
Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,
Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”
Nghe lời vừa ý, gật đầu,
Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”
Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],
Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân[15],
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].
Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)
[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.
[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.
[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.
[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.
[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.
[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.
[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.
[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.
[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.
[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương.
[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.
[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.
[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.
[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.
[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.
[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.
Hướng dẫn giải:
- Những từ ngữ dùng để chỉ nhân vật Từ Hải: khách biên đình, đấng anh hào, anh hùng, trai anh hùng.
- Những từ ngữ, hình ảnh dùng để miêu tả nhân vật Từ Hải: râu hùm, hàm én, mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
- Nhận xét về thái độ của tác giả dành cho Từ Hải: trân trọng, ngợi ca, tôn vinh, lí tưởng hóa nhân vật.
(1.0 điểm)
Theo em, nhân vật Từ Hải được khắc họa bằng bút pháp gì? Hãy phân tích tác dụng của bút pháp đó.
Bài đọc:Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]
Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.
Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào[4],
Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.
Đội trời, đạp đất ở đời,
Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].
Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,
Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bây giờ nghe tiếng má đào,
Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”
Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,
Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”
Nghe lời vừa ý, gật đầu,
Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”
Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],
Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân[15],
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].
Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)
[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.
[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.
[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.
[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.
[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.
[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.
[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.
[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.
[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.
[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương.
[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.
[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.
[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.
[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.
[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.
[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.
Hướng dẫn giải:
- Xác định được bút pháp được sử dụng: ước lệ, lí tưởng hóa.
- Tác dụng của bút pháp miêu tả ước lệ, lí tưởng hóa: Phác họa chân thực, cụ thể chân dung người anh hùng Từ Hải với những nét đẹp tiêu chuẩn, mực thước của xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện sự trân trọng, ngợi ca, tôn vinh mà tác giả dành cho nhân vật.
(1.0 điểm)
Trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm tài nhân đã miêu tả nhân vật Từ Hải trong lần đầu xuất hiện như sau:
Lúc ấy, có một hảo hán tên Hải họ Từ, tự là Minh Sơn, vốn người đất Việt, có tính khoáng đạt, rộng rãi, giàu sang coi nhẹ, tì thiếp oi thường, lại còn tinh cả lục thao tam lược, nổi danh cái thế anh hùng (anh hùng trùm cả đời). Trước cũng theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy khoa, sau mới xoay ra thương mại, tiền của có thừa, lại thích kết giao với những giang hồ hiệp khách. Nay nghe Thúy Kiều là hạng tài sắc, lại thêm khí khái hiệp hào, nhân tiện ghé thăm, mụ chủ biết Từ Minh Sơn là tay hảo hán, có lòng hạ cố, vội kêu Thúy Kiều ra tiếp. Thoạt mới nhìn nhau, đôi bên đã có phần thiện cảm…
(Phạm Đan Quế, Truyện Kiều đối chiếu, NXB Hải Phòng, Hải Phòng, 1999, trang 349 – 350)
So sánh với bút pháp miêu tả Từ Hải của Nguyễn Du, hãy chỉ ra một sự sáng tạo của Nguyễn Du so với Thanh Tâm tài nhân khi xây dựng nhân vật Từ Hải.
Bài đọc:Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]
Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.
Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào[4],
Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.
Đội trời, đạp đất ở đời,
Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].
Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,
Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bây giờ nghe tiếng má đào,
Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”
Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,
Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”
Nghe lời vừa ý, gật đầu,
Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”
Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],
Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân[15],
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].
Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)
[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.
[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.
[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.
[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.
[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.
[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.
[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.
[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.
[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.
[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương.
[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.
[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.
[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.
[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.
[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.
[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.
Hướng dẫn giải:
Một số sự sáng tạo của Nguyễn Du so với Thanh Tâm tài nhân khi xây dựng nhân vật Từ Hải là:
- Nguyễn Du miêu tả chi tiết, cụ thể chân dung của Từ Hải theo những nét đẹp ước lệ, tượng trưng - khuôn mẫu tiêu chuẩn vẻ đẹp người anh hùng thời trung đại.
- Lược bỏ bớt những chi tiết không được đẹp trong lai lịch của Từ Hải góp phần tôn thêm nét đẹp của nhân vật, tạo thiện cảm với bạn đọc.
- Thay vì để cho cuộc gặp gỡ thông qua sự chỉ thị của mụ chủ, Nguyễn Du lại để cho Từ Hải chủ động gửi thiếp danh trước. Chi tiết thể hiện sự lịch thiệp, trang trọng của Từ Hải đồng thời cho thấy Từ Hải cũng rất tôn trọng Thúy Kiều, không coi nàng giống những cô gái lầu xanh khác.
(2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật Từ Hải trong văn bản Trai anh hùng, gái thuyền quyên (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du).
Bài đọc:Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]
Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.
Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào[4],
Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.
Đội trời, đạp đất ở đời,
Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].
Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,
Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bây giờ nghe tiếng má đào,
Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”
Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,
Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”
Nghe lời vừa ý, gật đầu,
Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”
Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],
Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân[15],
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].
Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)
[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.
[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.
[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.
[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.
[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.
[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.
[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.
[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.
[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.
[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương.
[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.
[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.
[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.
[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.
[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.
[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.
Hướng dẫn giải:
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:
Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: nhân vật Từ Hải.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:
- Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý: Nhân vật được khắc họa thông qua diện mạo, những thông tin về lai lịch xuất thân, hành động, lời nói và qua từ ngữ sử dụng để chỉ, miêu tả nhân vật Từ Hải.
- Sắp xếp được hệ thống ý phù hợp theo đặc điểm của kiểu văn bản.
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau:
- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
- Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
e. Diễn đạt:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
f. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
(4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/ chị về lí tưởng sống của thế hệ trẻ trong cuộc sống hôm nay.
Hướng dẫn giải:
a. Xác định yêu cầu của kiểu bài:
Xác định được yêu cầu của kiểu bài: nghị luận xã hội.
b. Xác đinh đúng vấn đề nghị luận: lí tưởng sống của thế hệ trẻ trong cuộc sống hôm nay.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết:
- Xác định được các ý chính của bài viết.
- Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận:
* Giới thiệu vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm của cá nhân về vấn đề.
* Triển khai vấn đề nghị luận:
- Giải thích vấn đề nghị luận: Thế nào là lí tưởng?
- Thể hiện quan điểm của người viết:
+ Vai trò của lí tưởng đối với thế hệ trẻ.
+ Lí tưởng của thế hệ trẻ ngày hôm nay có điểm nào giống và khác biệt so với lí tưởng của những thế hệ trước đó?
+ Thế hệ trẻ ngày nay có tồn tại những vấn đề nào lệch lạc về lí tưởng hay không?
+ Bản thân em cần làm gì để thay đổi những điểm tiêu cực đó hay phát triển những yếu tố tích cực ở thế hệ trẻ?
+ Rút ra bài học về lí tưởng sống cho bản thân.
d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:
- Triển khai được ít nhất hai luận điểm để làm rõ quan điểm của cá nhân.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và bằng chứng.
Lưu ý: Thí sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
e. Diễn đạt:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
f. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.