Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Đề số 1 SVIP
(0.5 điểm)
Xác định ngôi kể của người kể chuyện.
Bài đọc:SAO SÁNG LẤP LÁNH
Nguyễn Thị Ấm
Đó là năm 1972.
Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu… Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới của mình ra cho đồng đội xem. Đến lượt Minh, cậu ta cầm tấm ảnh trên tay bỗng cười cười cất tiếng:
– Vợ chưa cưới của tiểu đội trưởng rất đẹp… Nhưng chưa đẹp bằng người yêu của em.
Cả tiểu đội nhao nhao:
– Ảnh đâu!… Đưa ra đây xem nào?
Minh gãi đầu buồn bã:
– Các vị quên à?… Trước khi đi B, cấp trên chẳng thu hết các giấy tờ, các tấm ảnh của người thân rồi còn gì.
– Sao mày không cố giấu lấy tấm hình của người yêu?
– Ngày đó không biết, nghe lời cấp trên mới ngốc chứ.
– Người yêu làm nghề gì?
– Học sinh trường múa Việt Nam.
– Trời!
Tất cả trầm trồ xuýt xoa. Bởi chắc chắn rằng học sinh trường múa phải đẹp hớp hồn. Có tiếng nói lại vang lên:
– Tên là gì?
– Tên là Hạnh.
– Làm quen… Và yêu như thế nào, kể cho bọn tao nghe đi.
Minh lại cười cười.
– Ờ thì kể. Nhưng cấm mọi người được cười đấy.
Rồi cậu ta nhìn vào ngọn lửa bập bùng cất tiếng nói: “Hồi còn đóng quân ở gần Hà Nội, có một hôm, tớ được tranh thủ về thăm nhà. Bước chân lên chuyến xe buýt Cầu Giấy – Bờ Hồ, tớ vô tình đứng sau một cô gái mặc áo hoa. Tò mò muốn xem cô có đẹp không, nên tớ cố len lên. Chưa kịp nhìn đã va phải cô ấy. Cô gái lườm rồi đứng tránh ra. Tớ ngượng quá, ấp úng:
– Xin lỗi!… Tôi không có tiền mua vé. Bạn có thể mua giùm tôi được không?
Cô gái nhìn nghi ngờ. Anh bán vé tiến lại. Cô lấy tiền mua hai chiếc vé. Rồi đưa cho tớ một chiếc nhưng không nói một lời. Tớ vẫn đứng như trời trồng, thỉnh thoảng lại nhìn trộm… Một cô gái mắt to và sáng lấp lánh như sao. Xe đỗ cạnh Bờ Hồ. Cô gái bước xuống. Không hiểu sao tớ cũng bị bước theo như sắt gặp nam châm. Tớ đi sau cô khoảng mười lăm bước chân. Cô gái rẽ trái, tớ cũng rẽ trái. Cô rẽ phải, tớ cũng rẽ phải. Bỗng cô gái quay lại, cất tiếng:
– Anh bộ đội… Tại sao anh lại đi theo em?
Tớ cười, gãi đầu, ấp úng:
– Tôi… tôi… muốn biết nhà… để trả tiền.
Cô gái cười giòn:
– Không… không phải trả tiền đâu.
Rồi cô chạy vụt vào sau một cái cổng sắt. Mặt tớ đỏ bừng, bước đi như người say rượu.
Chiều hôm sau, tớ quay lại để trả tiền vé xe buýt. Gặp cô gái, tớ liều lĩnh mời cô đi xem phim. Cô đã nhận lời… Và chúng tớ yêu nhau…”.
Đêm đó, khi cơn mưa rừng vừa tạnh, những người lính chúng tôi cứ nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời... mà không ngủ được.
Sáu tháng sau, một đêm tháng Mười, tôi và Minh được phái đi trinh sát cảng Cửa Việt. Sau ba tiếng đồng hồ tiếp cận mục tiêu, hai đứa rút ra ngoài. Ba giờ sáng, chúng tôi cố gắng băng ngang qua những đồi cát trắng mênh mông để trở về cứ. Bỗng một loạt pháo dàn từ biển bắn vào. Tôi bò xoài lăn mình trên cát để tránh. Sau loạt đạn, tôi chồm dậy cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Tôi vùng dậy chạy ngay đến chỗ Minh. Cậu ta nằm úp sấp. Một mảnh pháo đã cắm vào ổ bụng. Máu trào qua lớp áo. Tôi băng bó rồi cõng Minh đi thật nhanh. Máu từ vết thương trào ra thấm ướt lưng tôi rồi nhễu xuống cát trắng. Bỗng Minh tỉnh lại thều thào:
– Anh!… Để em xuống đi… Em không sống được nữa đâu.
Tôi khẽ đặt Minh nằm xuống đồi cát. Minh nhìn tôi, giọng đứt đoạn:
– Anh chôn em tại đây… Cố về đơn vị nhanh kẻo trời sáng.
Gió biển thổi vù vù. Người Minh lạnh toát. Tôi nắm lấy tay Minh cuống cuồng:
– Thế!… Thế! Em có nhắn gì cho Hạnh?
Minh cố cười:
– Chuyện… chuyện đó em tưởng tượng đấy! Em chưa được cô gái nào yêu cả. Cũng tại em mồ côi cha mẹ nên không còn người thân nào hết…
Nước mắt tôi trào ra. Bỗng Minh lại lên tiếng:
– Em có một lá thư… ở trong túi áo ngực. Bao giờ hoà bình, anh đem bỏ vào thùng thư hộ em…
Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi. Tôi sờ túi áo ngực của Minh, thấy một mảnh giấy gấp làm tư. Tôi vội vã bấm đèn pin để đọc. Trong tờ giấy chỉ có mỗi một dòng chữ liêu xiêu: “Hạnh ơi!… Anh cô đơn lắm…”. Và kí tên.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi theo đoàn quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn. Năm giờ chiều, thành phố tràn ngập cờ hoa. Tôi thẫn thờ ra chợ mua một cái phong bì. Rồi bỏ lá thư bị vương máu vào trong. Bên ngoài bì thư tôi viết: Gửi Hạnh – Học sinh trường múa Việt Nam – Khu Cầu Giấy, Hà Nội.
Những người lính trong tiểu đội của tôi tin rằng… lá thư đó đã đến tay cô gái có đôi mắt như vì sao sáng lấp lánh.
(Theo isach.infor)
* Tác giả, tác phẩm
Nhà văn Nguyễn Thị Ấm, quê ở Long An, sinh sống, làm việc và viết văn tại Hà Nội. Đây là một trong những cây bút nữ tiêu biểu xuất hiện trong giai đoạn đổi mới của nền văn học Việt Nam (1986). Một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Ấm: Giấc ngủ nơi trần thế, Sao sáng lấp lánh, Người đến từ phía cánh rừng, Tự do cho một kiếp người,…
Hướng dẫn giải:
Xác định ngôi kể: người kể chuyện ngôi thứ nhất.
(0.5 điểm)
Hình ảnh nào của nhân vật Hạnh để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho Minh và đồng đội của anh?
Bài đọc:SAO SÁNG LẤP LÁNH
Nguyễn Thị Ấm
Đó là năm 1972.
Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu… Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới của mình ra cho đồng đội xem. Đến lượt Minh, cậu ta cầm tấm ảnh trên tay bỗng cười cười cất tiếng:
– Vợ chưa cưới của tiểu đội trưởng rất đẹp… Nhưng chưa đẹp bằng người yêu của em.
Cả tiểu đội nhao nhao:
– Ảnh đâu!… Đưa ra đây xem nào?
Minh gãi đầu buồn bã:
– Các vị quên à?… Trước khi đi B, cấp trên chẳng thu hết các giấy tờ, các tấm ảnh của người thân rồi còn gì.
– Sao mày không cố giấu lấy tấm hình của người yêu?
– Ngày đó không biết, nghe lời cấp trên mới ngốc chứ.
– Người yêu làm nghề gì?
– Học sinh trường múa Việt Nam.
– Trời!
Tất cả trầm trồ xuýt xoa. Bởi chắc chắn rằng học sinh trường múa phải đẹp hớp hồn. Có tiếng nói lại vang lên:
– Tên là gì?
– Tên là Hạnh.
– Làm quen… Và yêu như thế nào, kể cho bọn tao nghe đi.
Minh lại cười cười.
– Ờ thì kể. Nhưng cấm mọi người được cười đấy.
Rồi cậu ta nhìn vào ngọn lửa bập bùng cất tiếng nói: “Hồi còn đóng quân ở gần Hà Nội, có một hôm, tớ được tranh thủ về thăm nhà. Bước chân lên chuyến xe buýt Cầu Giấy – Bờ Hồ, tớ vô tình đứng sau một cô gái mặc áo hoa. Tò mò muốn xem cô có đẹp không, nên tớ cố len lên. Chưa kịp nhìn đã va phải cô ấy. Cô gái lườm rồi đứng tránh ra. Tớ ngượng quá, ấp úng:
– Xin lỗi!… Tôi không có tiền mua vé. Bạn có thể mua giùm tôi được không?
Cô gái nhìn nghi ngờ. Anh bán vé tiến lại. Cô lấy tiền mua hai chiếc vé. Rồi đưa cho tớ một chiếc nhưng không nói một lời. Tớ vẫn đứng như trời trồng, thỉnh thoảng lại nhìn trộm… Một cô gái mắt to và sáng lấp lánh như sao. Xe đỗ cạnh Bờ Hồ. Cô gái bước xuống. Không hiểu sao tớ cũng bị bước theo như sắt gặp nam châm. Tớ đi sau cô khoảng mười lăm bước chân. Cô gái rẽ trái, tớ cũng rẽ trái. Cô rẽ phải, tớ cũng rẽ phải. Bỗng cô gái quay lại, cất tiếng:
– Anh bộ đội… Tại sao anh lại đi theo em?
Tớ cười, gãi đầu, ấp úng:
– Tôi… tôi… muốn biết nhà… để trả tiền.
Cô gái cười giòn:
– Không… không phải trả tiền đâu.
Rồi cô chạy vụt vào sau một cái cổng sắt. Mặt tớ đỏ bừng, bước đi như người say rượu.
Chiều hôm sau, tớ quay lại để trả tiền vé xe buýt. Gặp cô gái, tớ liều lĩnh mời cô đi xem phim. Cô đã nhận lời… Và chúng tớ yêu nhau…”.
Đêm đó, khi cơn mưa rừng vừa tạnh, những người lính chúng tôi cứ nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời... mà không ngủ được.
Sáu tháng sau, một đêm tháng Mười, tôi và Minh được phái đi trinh sát cảng Cửa Việt. Sau ba tiếng đồng hồ tiếp cận mục tiêu, hai đứa rút ra ngoài. Ba giờ sáng, chúng tôi cố gắng băng ngang qua những đồi cát trắng mênh mông để trở về cứ. Bỗng một loạt pháo dàn từ biển bắn vào. Tôi bò xoài lăn mình trên cát để tránh. Sau loạt đạn, tôi chồm dậy cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Tôi vùng dậy chạy ngay đến chỗ Minh. Cậu ta nằm úp sấp. Một mảnh pháo đã cắm vào ổ bụng. Máu trào qua lớp áo. Tôi băng bó rồi cõng Minh đi thật nhanh. Máu từ vết thương trào ra thấm ướt lưng tôi rồi nhễu xuống cát trắng. Bỗng Minh tỉnh lại thều thào:
– Anh!… Để em xuống đi… Em không sống được nữa đâu.
Tôi khẽ đặt Minh nằm xuống đồi cát. Minh nhìn tôi, giọng đứt đoạn:
– Anh chôn em tại đây… Cố về đơn vị nhanh kẻo trời sáng.
Gió biển thổi vù vù. Người Minh lạnh toát. Tôi nắm lấy tay Minh cuống cuồng:
– Thế!… Thế! Em có nhắn gì cho Hạnh?
Minh cố cười:
– Chuyện… chuyện đó em tưởng tượng đấy! Em chưa được cô gái nào yêu cả. Cũng tại em mồ côi cha mẹ nên không còn người thân nào hết…
Nước mắt tôi trào ra. Bỗng Minh lại lên tiếng:
– Em có một lá thư… ở trong túi áo ngực. Bao giờ hoà bình, anh đem bỏ vào thùng thư hộ em…
Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi. Tôi sờ túi áo ngực của Minh, thấy một mảnh giấy gấp làm tư. Tôi vội vã bấm đèn pin để đọc. Trong tờ giấy chỉ có mỗi một dòng chữ liêu xiêu: “Hạnh ơi!… Anh cô đơn lắm…”. Và kí tên.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi theo đoàn quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn. Năm giờ chiều, thành phố tràn ngập cờ hoa. Tôi thẫn thờ ra chợ mua một cái phong bì. Rồi bỏ lá thư bị vương máu vào trong. Bên ngoài bì thư tôi viết: Gửi Hạnh – Học sinh trường múa Việt Nam – Khu Cầu Giấy, Hà Nội.
Những người lính trong tiểu đội của tôi tin rằng… lá thư đó đã đến tay cô gái có đôi mắt như vì sao sáng lấp lánh.
(Theo isach.infor)
* Tác giả, tác phẩm
Nhà văn Nguyễn Thị Ấm, quê ở Long An, sinh sống, làm việc và viết văn tại Hà Nội. Đây là một trong những cây bút nữ tiêu biểu xuất hiện trong giai đoạn đổi mới của nền văn học Việt Nam (1986). Một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Ấm: Giấc ngủ nơi trần thế, Sao sáng lấp lánh, Người đến từ phía cánh rừng, Tự do cho một kiếp người,…
Hướng dẫn giải:
Hạnh có đôi mắt sáng lấp lánh như vì sao.
(1.0 điểm)
Chỉ ra và nêu tác dụng của hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong những câu văn sau: Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi.
Bài đọc:SAO SÁNG LẤP LÁNH
Nguyễn Thị Ấm
Đó là năm 1972.
Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu… Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới của mình ra cho đồng đội xem. Đến lượt Minh, cậu ta cầm tấm ảnh trên tay bỗng cười cười cất tiếng:
– Vợ chưa cưới của tiểu đội trưởng rất đẹp… Nhưng chưa đẹp bằng người yêu của em.
Cả tiểu đội nhao nhao:
– Ảnh đâu!… Đưa ra đây xem nào?
Minh gãi đầu buồn bã:
– Các vị quên à?… Trước khi đi B, cấp trên chẳng thu hết các giấy tờ, các tấm ảnh của người thân rồi còn gì.
– Sao mày không cố giấu lấy tấm hình của người yêu?
– Ngày đó không biết, nghe lời cấp trên mới ngốc chứ.
– Người yêu làm nghề gì?
– Học sinh trường múa Việt Nam.
– Trời!
Tất cả trầm trồ xuýt xoa. Bởi chắc chắn rằng học sinh trường múa phải đẹp hớp hồn. Có tiếng nói lại vang lên:
– Tên là gì?
– Tên là Hạnh.
– Làm quen… Và yêu như thế nào, kể cho bọn tao nghe đi.
Minh lại cười cười.
– Ờ thì kể. Nhưng cấm mọi người được cười đấy.
Rồi cậu ta nhìn vào ngọn lửa bập bùng cất tiếng nói: “Hồi còn đóng quân ở gần Hà Nội, có một hôm, tớ được tranh thủ về thăm nhà. Bước chân lên chuyến xe buýt Cầu Giấy – Bờ Hồ, tớ vô tình đứng sau một cô gái mặc áo hoa. Tò mò muốn xem cô có đẹp không, nên tớ cố len lên. Chưa kịp nhìn đã va phải cô ấy. Cô gái lườm rồi đứng tránh ra. Tớ ngượng quá, ấp úng:
– Xin lỗi!… Tôi không có tiền mua vé. Bạn có thể mua giùm tôi được không?
Cô gái nhìn nghi ngờ. Anh bán vé tiến lại. Cô lấy tiền mua hai chiếc vé. Rồi đưa cho tớ một chiếc nhưng không nói một lời. Tớ vẫn đứng như trời trồng, thỉnh thoảng lại nhìn trộm… Một cô gái mắt to và sáng lấp lánh như sao. Xe đỗ cạnh Bờ Hồ. Cô gái bước xuống. Không hiểu sao tớ cũng bị bước theo như sắt gặp nam châm. Tớ đi sau cô khoảng mười lăm bước chân. Cô gái rẽ trái, tớ cũng rẽ trái. Cô rẽ phải, tớ cũng rẽ phải. Bỗng cô gái quay lại, cất tiếng:
– Anh bộ đội… Tại sao anh lại đi theo em?
Tớ cười, gãi đầu, ấp úng:
– Tôi… tôi… muốn biết nhà… để trả tiền.
Cô gái cười giòn:
– Không… không phải trả tiền đâu.
Rồi cô chạy vụt vào sau một cái cổng sắt. Mặt tớ đỏ bừng, bước đi như người say rượu.
Chiều hôm sau, tớ quay lại để trả tiền vé xe buýt. Gặp cô gái, tớ liều lĩnh mời cô đi xem phim. Cô đã nhận lời… Và chúng tớ yêu nhau…”.
Đêm đó, khi cơn mưa rừng vừa tạnh, những người lính chúng tôi cứ nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời... mà không ngủ được.
Sáu tháng sau, một đêm tháng Mười, tôi và Minh được phái đi trinh sát cảng Cửa Việt. Sau ba tiếng đồng hồ tiếp cận mục tiêu, hai đứa rút ra ngoài. Ba giờ sáng, chúng tôi cố gắng băng ngang qua những đồi cát trắng mênh mông để trở về cứ. Bỗng một loạt pháo dàn từ biển bắn vào. Tôi bò xoài lăn mình trên cát để tránh. Sau loạt đạn, tôi chồm dậy cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Tôi vùng dậy chạy ngay đến chỗ Minh. Cậu ta nằm úp sấp. Một mảnh pháo đã cắm vào ổ bụng. Máu trào qua lớp áo. Tôi băng bó rồi cõng Minh đi thật nhanh. Máu từ vết thương trào ra thấm ướt lưng tôi rồi nhễu xuống cát trắng. Bỗng Minh tỉnh lại thều thào:
– Anh!… Để em xuống đi… Em không sống được nữa đâu.
Tôi khẽ đặt Minh nằm xuống đồi cát. Minh nhìn tôi, giọng đứt đoạn:
– Anh chôn em tại đây… Cố về đơn vị nhanh kẻo trời sáng.
Gió biển thổi vù vù. Người Minh lạnh toát. Tôi nắm lấy tay Minh cuống cuồng:
– Thế!… Thế! Em có nhắn gì cho Hạnh?
Minh cố cười:
– Chuyện… chuyện đó em tưởng tượng đấy! Em chưa được cô gái nào yêu cả. Cũng tại em mồ côi cha mẹ nên không còn người thân nào hết…
Nước mắt tôi trào ra. Bỗng Minh lại lên tiếng:
– Em có một lá thư… ở trong túi áo ngực. Bao giờ hoà bình, anh đem bỏ vào thùng thư hộ em…
Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi. Tôi sờ túi áo ngực của Minh, thấy một mảnh giấy gấp làm tư. Tôi vội vã bấm đèn pin để đọc. Trong tờ giấy chỉ có mỗi một dòng chữ liêu xiêu: “Hạnh ơi!… Anh cô đơn lắm…”. Và kí tên.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi theo đoàn quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn. Năm giờ chiều, thành phố tràn ngập cờ hoa. Tôi thẫn thờ ra chợ mua một cái phong bì. Rồi bỏ lá thư bị vương máu vào trong. Bên ngoài bì thư tôi viết: Gửi Hạnh – Học sinh trường múa Việt Nam – Khu Cầu Giấy, Hà Nội.
Những người lính trong tiểu đội của tôi tin rằng… lá thư đó đã đến tay cô gái có đôi mắt như vì sao sáng lấp lánh.
(Theo isach.infor)
* Tác giả, tác phẩm
Nhà văn Nguyễn Thị Ấm, quê ở Long An, sinh sống, làm việc và viết văn tại Hà Nội. Đây là một trong những cây bút nữ tiêu biểu xuất hiện trong giai đoạn đổi mới của nền văn học Việt Nam (1986). Một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Ấm: Giấc ngủ nơi trần thế, Sao sáng lấp lánh, Người đến từ phía cánh rừng, Tự do cho một kiếp người,…
Hướng dẫn giải:
- Chỉ ra được hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường là kết hợp từ bất bình thường: “người đồng đội của tôi theo gió ra đi”.
- Tác dụng: thể hiện tâm trạng xúc động, nghẹn ngào của người lính khi chứng kiến đồng đội ra đi; cũng là một cách diễn đạt kín đáo, để nguôi ngoai bớt đi nỗi đau đớn, xót xa, mất mát khi nói về cái chết bi tráng của người lính tử trận.
(1.0 điểm)
Nhận xét một vẻ đẹp nổi bật của nhân vật Minh được thể hiện trong văn bản.
Bài đọc:SAO SÁNG LẤP LÁNH
Nguyễn Thị Ấm
Đó là năm 1972.
Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu… Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới của mình ra cho đồng đội xem. Đến lượt Minh, cậu ta cầm tấm ảnh trên tay bỗng cười cười cất tiếng:
– Vợ chưa cưới của tiểu đội trưởng rất đẹp… Nhưng chưa đẹp bằng người yêu của em.
Cả tiểu đội nhao nhao:
– Ảnh đâu!… Đưa ra đây xem nào?
Minh gãi đầu buồn bã:
– Các vị quên à?… Trước khi đi B, cấp trên chẳng thu hết các giấy tờ, các tấm ảnh của người thân rồi còn gì.
– Sao mày không cố giấu lấy tấm hình của người yêu?
– Ngày đó không biết, nghe lời cấp trên mới ngốc chứ.
– Người yêu làm nghề gì?
– Học sinh trường múa Việt Nam.
– Trời!
Tất cả trầm trồ xuýt xoa. Bởi chắc chắn rằng học sinh trường múa phải đẹp hớp hồn. Có tiếng nói lại vang lên:
– Tên là gì?
– Tên là Hạnh.
– Làm quen… Và yêu như thế nào, kể cho bọn tao nghe đi.
Minh lại cười cười.
– Ờ thì kể. Nhưng cấm mọi người được cười đấy.
Rồi cậu ta nhìn vào ngọn lửa bập bùng cất tiếng nói: “Hồi còn đóng quân ở gần Hà Nội, có một hôm, tớ được tranh thủ về thăm nhà. Bước chân lên chuyến xe buýt Cầu Giấy – Bờ Hồ, tớ vô tình đứng sau một cô gái mặc áo hoa. Tò mò muốn xem cô có đẹp không, nên tớ cố len lên. Chưa kịp nhìn đã va phải cô ấy. Cô gái lườm rồi đứng tránh ra. Tớ ngượng quá, ấp úng:
– Xin lỗi!… Tôi không có tiền mua vé. Bạn có thể mua giùm tôi được không?
Cô gái nhìn nghi ngờ. Anh bán vé tiến lại. Cô lấy tiền mua hai chiếc vé. Rồi đưa cho tớ một chiếc nhưng không nói một lời. Tớ vẫn đứng như trời trồng, thỉnh thoảng lại nhìn trộm… Một cô gái mắt to và sáng lấp lánh như sao. Xe đỗ cạnh Bờ Hồ. Cô gái bước xuống. Không hiểu sao tớ cũng bị bước theo như sắt gặp nam châm. Tớ đi sau cô khoảng mười lăm bước chân. Cô gái rẽ trái, tớ cũng rẽ trái. Cô rẽ phải, tớ cũng rẽ phải. Bỗng cô gái quay lại, cất tiếng:
– Anh bộ đội… Tại sao anh lại đi theo em?
Tớ cười, gãi đầu, ấp úng:
– Tôi… tôi… muốn biết nhà… để trả tiền.
Cô gái cười giòn:
– Không… không phải trả tiền đâu.
Rồi cô chạy vụt vào sau một cái cổng sắt. Mặt tớ đỏ bừng, bước đi như người say rượu.
Chiều hôm sau, tớ quay lại để trả tiền vé xe buýt. Gặp cô gái, tớ liều lĩnh mời cô đi xem phim. Cô đã nhận lời… Và chúng tớ yêu nhau…”.
Đêm đó, khi cơn mưa rừng vừa tạnh, những người lính chúng tôi cứ nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời... mà không ngủ được.
Sáu tháng sau, một đêm tháng Mười, tôi và Minh được phái đi trinh sát cảng Cửa Việt. Sau ba tiếng đồng hồ tiếp cận mục tiêu, hai đứa rút ra ngoài. Ba giờ sáng, chúng tôi cố gắng băng ngang qua những đồi cát trắng mênh mông để trở về cứ. Bỗng một loạt pháo dàn từ biển bắn vào. Tôi bò xoài lăn mình trên cát để tránh. Sau loạt đạn, tôi chồm dậy cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Tôi vùng dậy chạy ngay đến chỗ Minh. Cậu ta nằm úp sấp. Một mảnh pháo đã cắm vào ổ bụng. Máu trào qua lớp áo. Tôi băng bó rồi cõng Minh đi thật nhanh. Máu từ vết thương trào ra thấm ướt lưng tôi rồi nhễu xuống cát trắng. Bỗng Minh tỉnh lại thều thào:
– Anh!… Để em xuống đi… Em không sống được nữa đâu.
Tôi khẽ đặt Minh nằm xuống đồi cát. Minh nhìn tôi, giọng đứt đoạn:
– Anh chôn em tại đây… Cố về đơn vị nhanh kẻo trời sáng.
Gió biển thổi vù vù. Người Minh lạnh toát. Tôi nắm lấy tay Minh cuống cuồng:
– Thế!… Thế! Em có nhắn gì cho Hạnh?
Minh cố cười:
– Chuyện… chuyện đó em tưởng tượng đấy! Em chưa được cô gái nào yêu cả. Cũng tại em mồ côi cha mẹ nên không còn người thân nào hết…
Nước mắt tôi trào ra. Bỗng Minh lại lên tiếng:
– Em có một lá thư… ở trong túi áo ngực. Bao giờ hoà bình, anh đem bỏ vào thùng thư hộ em…
Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi. Tôi sờ túi áo ngực của Minh, thấy một mảnh giấy gấp làm tư. Tôi vội vã bấm đèn pin để đọc. Trong tờ giấy chỉ có mỗi một dòng chữ liêu xiêu: “Hạnh ơi!… Anh cô đơn lắm…”. Và kí tên.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi theo đoàn quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn. Năm giờ chiều, thành phố tràn ngập cờ hoa. Tôi thẫn thờ ra chợ mua một cái phong bì. Rồi bỏ lá thư bị vương máu vào trong. Bên ngoài bì thư tôi viết: Gửi Hạnh – Học sinh trường múa Việt Nam – Khu Cầu Giấy, Hà Nội.
Những người lính trong tiểu đội của tôi tin rằng… lá thư đó đã đến tay cô gái có đôi mắt như vì sao sáng lấp lánh.
(Theo isach.infor)
* Tác giả, tác phẩm
Nhà văn Nguyễn Thị Ấm, quê ở Long An, sinh sống, làm việc và viết văn tại Hà Nội. Đây là một trong những cây bút nữ tiêu biểu xuất hiện trong giai đoạn đổi mới của nền văn học Việt Nam (1986). Một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Ấm: Giấc ngủ nơi trần thế, Sao sáng lấp lánh, Người đến từ phía cánh rừng, Tự do cho một kiếp người,…
Hướng dẫn giải:
- Chỉ ra được một vẻ đẹp nổi bật của nhân vật Minh:
+ Khát vọng tình yêu trẻ trung, mãnh liệt.
+ Sự ghìm nén những góc khuất của cảm xúc, tình cảm riêng tư, vượt lên hoàn cảnh để chiến đấu và hi sinh cho tổ quốc; có tình yêu nước lớn lao.
+ Có tinh thần đồng đội gắn bó sâu sắc.
+…
- Nhận xét về phẩm chất nổi bật đã chỉ ra (những biểu hiện của phẩm chất trong văn bản; tác động của phẩm chất đến HS…).
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi theo đoàn quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn. Năm giờ chiều, thành phố tràn ngập cờ hoa. Tôi thẫn thờ ra chợ mua một cái phong bì. Rồi bỏ lá thư bị vương máu vào trong. Bên ngoài bì thư tôi viết: "Gửi Hạnh – Học sinh trường múa Việt Nam – Khu Cầu Giấy, Hà Nội."
Những người lính trong tiểu đội của tôi tin rằng… lá thư đó đã đến tay cô gái có đôi mắt như vì sao sáng lấp lánh.
Qua đoạn trích trên, hãy nêu một thông điệp anh/chị thấy có ý nghĩa nhất đối với cuộc sống và giải thích lí do.
Bài đọc:SAO SÁNG LẤP LÁNH
Nguyễn Thị Ấm
Đó là năm 1972.
Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu… Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới của mình ra cho đồng đội xem. Đến lượt Minh, cậu ta cầm tấm ảnh trên tay bỗng cười cười cất tiếng:
– Vợ chưa cưới của tiểu đội trưởng rất đẹp… Nhưng chưa đẹp bằng người yêu của em.
Cả tiểu đội nhao nhao:
– Ảnh đâu!… Đưa ra đây xem nào?
Minh gãi đầu buồn bã:
– Các vị quên à?… Trước khi đi B, cấp trên chẳng thu hết các giấy tờ, các tấm ảnh của người thân rồi còn gì.
– Sao mày không cố giấu lấy tấm hình của người yêu?
– Ngày đó không biết, nghe lời cấp trên mới ngốc chứ.
– Người yêu làm nghề gì?
– Học sinh trường múa Việt Nam.
– Trời!
Tất cả trầm trồ xuýt xoa. Bởi chắc chắn rằng học sinh trường múa phải đẹp hớp hồn. Có tiếng nói lại vang lên:
– Tên là gì?
– Tên là Hạnh.
– Làm quen… Và yêu như thế nào, kể cho bọn tao nghe đi.
Minh lại cười cười.
– Ờ thì kể. Nhưng cấm mọi người được cười đấy.
Rồi cậu ta nhìn vào ngọn lửa bập bùng cất tiếng nói: “Hồi còn đóng quân ở gần Hà Nội, có một hôm, tớ được tranh thủ về thăm nhà. Bước chân lên chuyến xe buýt Cầu Giấy – Bờ Hồ, tớ vô tình đứng sau một cô gái mặc áo hoa. Tò mò muốn xem cô có đẹp không, nên tớ cố len lên. Chưa kịp nhìn đã va phải cô ấy. Cô gái lườm rồi đứng tránh ra. Tớ ngượng quá, ấp úng:
– Xin lỗi!… Tôi không có tiền mua vé. Bạn có thể mua giùm tôi được không?
Cô gái nhìn nghi ngờ. Anh bán vé tiến lại. Cô lấy tiền mua hai chiếc vé. Rồi đưa cho tớ một chiếc nhưng không nói một lời. Tớ vẫn đứng như trời trồng, thỉnh thoảng lại nhìn trộm… Một cô gái mắt to và sáng lấp lánh như sao. Xe đỗ cạnh Bờ Hồ. Cô gái bước xuống. Không hiểu sao tớ cũng bị bước theo như sắt gặp nam châm. Tớ đi sau cô khoảng mười lăm bước chân. Cô gái rẽ trái, tớ cũng rẽ trái. Cô rẽ phải, tớ cũng rẽ phải. Bỗng cô gái quay lại, cất tiếng:
– Anh bộ đội… Tại sao anh lại đi theo em?
Tớ cười, gãi đầu, ấp úng:
– Tôi… tôi… muốn biết nhà… để trả tiền.
Cô gái cười giòn:
– Không… không phải trả tiền đâu.
Rồi cô chạy vụt vào sau một cái cổng sắt. Mặt tớ đỏ bừng, bước đi như người say rượu.
Chiều hôm sau, tớ quay lại để trả tiền vé xe buýt. Gặp cô gái, tớ liều lĩnh mời cô đi xem phim. Cô đã nhận lời… Và chúng tớ yêu nhau…”.
Đêm đó, khi cơn mưa rừng vừa tạnh, những người lính chúng tôi cứ nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời... mà không ngủ được.
Sáu tháng sau, một đêm tháng Mười, tôi và Minh được phái đi trinh sát cảng Cửa Việt. Sau ba tiếng đồng hồ tiếp cận mục tiêu, hai đứa rút ra ngoài. Ba giờ sáng, chúng tôi cố gắng băng ngang qua những đồi cát trắng mênh mông để trở về cứ. Bỗng một loạt pháo dàn từ biển bắn vào. Tôi bò xoài lăn mình trên cát để tránh. Sau loạt đạn, tôi chồm dậy cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Tôi vùng dậy chạy ngay đến chỗ Minh. Cậu ta nằm úp sấp. Một mảnh pháo đã cắm vào ổ bụng. Máu trào qua lớp áo. Tôi băng bó rồi cõng Minh đi thật nhanh. Máu từ vết thương trào ra thấm ướt lưng tôi rồi nhễu xuống cát trắng. Bỗng Minh tỉnh lại thều thào:
– Anh!… Để em xuống đi… Em không sống được nữa đâu.
Tôi khẽ đặt Minh nằm xuống đồi cát. Minh nhìn tôi, giọng đứt đoạn:
– Anh chôn em tại đây… Cố về đơn vị nhanh kẻo trời sáng.
Gió biển thổi vù vù. Người Minh lạnh toát. Tôi nắm lấy tay Minh cuống cuồng:
– Thế!… Thế! Em có nhắn gì cho Hạnh?
Minh cố cười:
– Chuyện… chuyện đó em tưởng tượng đấy! Em chưa được cô gái nào yêu cả. Cũng tại em mồ côi cha mẹ nên không còn người thân nào hết…
Nước mắt tôi trào ra. Bỗng Minh lại lên tiếng:
– Em có một lá thư… ở trong túi áo ngực. Bao giờ hoà bình, anh đem bỏ vào thùng thư hộ em…
Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi. Tôi sờ túi áo ngực của Minh, thấy một mảnh giấy gấp làm tư. Tôi vội vã bấm đèn pin để đọc. Trong tờ giấy chỉ có mỗi một dòng chữ liêu xiêu: “Hạnh ơi!… Anh cô đơn lắm…”. Và kí tên.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi theo đoàn quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn. Năm giờ chiều, thành phố tràn ngập cờ hoa. Tôi thẫn thờ ra chợ mua một cái phong bì. Rồi bỏ lá thư bị vương máu vào trong. Bên ngoài bì thư tôi viết: Gửi Hạnh – Học sinh trường múa Việt Nam – Khu Cầu Giấy, Hà Nội.
Những người lính trong tiểu đội của tôi tin rằng… lá thư đó đã đến tay cô gái có đôi mắt như vì sao sáng lấp lánh.
(Theo isach.infor)
* Tác giả, tác phẩm
Nhà văn Nguyễn Thị Ấm, quê ở Long An, sinh sống, làm việc và viết văn tại Hà Nội. Đây là một trong những cây bút nữ tiêu biểu xuất hiện trong giai đoạn đổi mới của nền văn học Việt Nam (1986). Một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Ấm: Giấc ngủ nơi trần thế, Sao sáng lấp lánh, Người đến từ phía cánh rừng, Tự do cho một kiếp người,…
Hướng dẫn giải:
- Nêu được một thông điệp mà HS thấy có ý nghĩa nhất với cuộc sống:
+ Sự khốc liệt của chiến tranh; những hi sinh lớn lao của những người lính; cái giá của hòa bình và hạnh phúc.
+ Sự sâu sắc, thủy chung của tình đồng đội, bạn bè, chiến hữu.
+ Niềm tin, sự tích cực, lạc quan trong cuộc sống.
+ Khát vọng được đồng cảm, thấu hiểu, trân trọng.
+ Trách nhiệm của bản thân và thế hệ trẻ đối với đất nước.
+…
- Lí giải một cách hợp lí và thuyết phục.
(2.0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong đoạn trích.
Bài đọc:Người lên ngựa, kẻ chia bào1,
Rừng phong2, thu đã nhuốm màu quan san3.
Dặm hồng4 bụi cuốn chinh an5,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2002, tr. 120 – 122)
*Vị trí đoạn trích: sau khi chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh, Thúc Sinh từ biệt nàng về gặp Hoạn Thư để trình bày về việc mình đã cưới vợ lẽ.
1. Chia bào: buông áo (bào: áo). Thường khi li biệt, người ta hay nắm lấy áo nhau, thể hiện tình cảm quyến luyến.
2. Phong: một loại cây, đến mùa thu thì sắc lá hóa đỏ.
3. Quan san: quan ải, núi non, thường chỉ sự xa xôi, cách trở.
4. Dặm hồng: dặm đường đi giữa bụi hồng.
5. Chinh an: việc đi đường xa (chinh: đi đường xa; an: yên ngựa).
Hướng dẫn giải:
a. Xác định được yêu cầu về hình thức; dung lượng của đoạn văn:
- Khoảng 200 chữ.
- Có thể trình bày theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp,…
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: bút pháp tả cảnh ngụ tình trong đoạn trích Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận
- Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
+ Giải thích bút pháp tả cảnh ngụ tình: bên cạnh việc miêu tả trực tiếp hành động, lời nói, cảm xúc,… của nhân vật, tác giả còn sử dụng lối miêu tả gián tiếp, thông qua việc tái hiện bức tranh thiên nhiên, cuộc sống,… để bộc lộ tâm trạng của con người.
+ Phân tích nghệ thuật sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong đoạn trích:
+) Hình ảnh người đi, kẻ ở trong khung cảnh cuộc chia tay (bốn câu đầu): Chú ý biện pháp nghệ thuật đối, sự di chuyển điểm nhìn vào ánh mắt của người ở lại, từ ngữ miêu tả hành động (lên ngựa, chia bào, nhuốm), hình ảnh (rừng phong, màu quan san, dặm hồng, mấy ngàn dâu xanh), thời gian (mùa thu), không gian (rừng phong, con đường,...). Từ đó cảm nhận được sự lưu luyến, nỗi buồn của chia li xa cách như nhuốm vào thiên nhiên, nhuốm vào lòng người tạo thành một màu sắc đặc biệt – màu của chia phôi, xa cách, nhớ thương.
+) Nỗi cô đơn của người về, kẻ đi và nỗi đau của vầng trăng hạnh phúc bị ai xẻ làm đôi (bốn câu kết): Chú ý phép đối (người về, kẻ đi; chiếc bóng năm canh; muôn dặm một mình xa xôi; nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường); hình ảnh về thời gian (chiếc bóng năm canh); hình ảnh về không gian (chiếc bóng năm canh, muôn dặm một hình xa xôi, gối chiếc, dặm trường) – không gian của người ở lại – chốn khuê phòng, không gian của người ra đi – chốn dặm trường; phép đảo ngữ (muôn dặm một mình xa xôi) nhấn mạnh vào ấn tượng không gian dặm trường đằng đẵng, nghìn trùng xa cách. Giọng điệu bi thương, trách móc, ai oán cho hạnh phúc bị chia cắt. Qua đó, cảm nhận bức tranh thiên nhiên, con người sau cuộc chia tay với nỗi cô đơn, u sầu; liên hệ với phần sau của “Truyện Kiều” để nhận ra những dự cảm không lành về tương lai,...
- Sắp xếp được hệ thống ý hợp lí theo đặc điểm bố cục của kiểu đoạn văn.
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau:
- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
- Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt
- Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
(4.0 điểm)
“Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, hãy tha thứ cho tất cả những người và những chuyện đã làm con tổn thương.”
(Trích từ trang Đạo Phật trong trái tim tôi)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về ý nghĩa của sự tha thứ đối với cuộc sống.
Hướng dẫn giải:
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài
Xác định được yêu cầu của kiểu bài: nghị luận xã hội.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: ý nghĩa của sự tha thứ đối với cuộc sống.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận
- Xác định được các ý chính của bài viết.
- Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận.
*Giới thiệu vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm của cá nhân về vấn đề.
*Triển khai vấn đề nghị luận:
- Giải thích vấn đề nghị luận:
+ Tha thứ: là tha cho, bỏ qua, không trách cứ hay trừng phạt vì lỗi lầm người khác đã gây ra cho bản thân.
+ Tha thứ không có nghĩa là quên hết tất cả, cũng không có nghĩa là giả vờ rằng đã không có những hành động lỗi lầm và tổn thương.
+ Tha thứ thực sự là khả năng buông bỏ sự oán giận và thực thi những ranh giới lành mạnh với người đã gây ra lỗi lầm và tổn thương.
- Thể hiện quan điểm của người viết, có thể theo một số gợi ý sau:
+ Sự tha thứ giúp con người ta từ bỏ những cảm xúc tiêu cực (tức giận, đau khổ, căm ghét…), để nhường chỗ cho những hạnh phúc, tâm hồn bình an thì cuộc sống sẽ tĩnh tại, thanh thản.
+ Sự tha thứ giúp con người dành nhiều thời gian hơn để tập trung vào chính bản thân mình, để hoàn thiện mình hơn.
+ Tha thứ sẽ giúp ta suy nghĩ cởi mở, rút ra những bài học cho chính mình từ người khác, biết sống yêu thương, tử tế và mạnh mẽ hơn.
+ Sự tha thứ sẽ giúp giảm căng thẳng, duy trì trạng thái sức khỏe tốt đẹp, lành mạnh.
+…
- Mở rộng, trao đổi quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác để có cái nhìn toàn diện,…
*Khẳng định quan điểm cá nhân đã trình bày và rút ra bài học cho bản thân.
d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:
- Triển khai được ít nhất hai luận điểm để làm rõ quan điểm của cá nhân.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và bằng chứng.
*Lưu ý: HS có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
đ. Diễn đạt
- Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.