Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Sắp xếp thứ tự các từ sau để được tên bài thơ của Trần Nhân Tông.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ning ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Phủ Thiên Trường là địa danh ở địa phương nào?
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Bài thơ Thiên Trường vãn vọng được làm theo thể thơ nào?
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra có thể thơ giống với bài nào đã học?
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Bài thơ Thiên Trường vãn vọng miêu tả cảnh vật vào thời điểm nào trong ngày?
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Từ nào nhận xét đúng về cảnh tượng trong bài thơ Thiên trường vãn vọng?
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Bài thơ Thiên trường vãn vọng cho thấy Trần Nhân Tông là tác giả như thế nào?
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Dòng nào dưới đây diễn đạt không đúng nghĩa của cụm từ "bán vô bán hữu"?
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Hình ảnh nào sau đây không xuất hiện trong bài thơ Thiên Trường vãn vọng?
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ning ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Ghép các từ Hán Việt sau với nghĩa tương ứng:
Tâm trạng của tác giả trong bài Thiên Trường vãn vọng là gì?
Sắp xếp các dòng sau để hoàn thành bản dịch thơ của bài Thiên Trường vãn vọng:
- Bóng chiều man mác có dường không
- Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
- Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
- Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bài Thiên Trường vãn vọng là bài thơ có cảm hứng thiền. Nhận xét trên đúng hay sai?
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn điền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường: tên đất, xem chú thích (*) ở cuối bài. Vãn: buổi chiều, vọng: trông. Thôn: làng, xóm, hậu: sau, tiền: trước, đạm: nhạt, tự: tựa như, yên: khói. Bán: nửa, vô: không, hữu: có, tịch: buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên: bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch: ống sao có 7 lỗ, lí: trong, ngưu: trâu, quy: về, tận: hết. Bạch: trắng, lộ: con cò, song: hai cái, một đôi, phi: bay, hạ: xuống, điền: ruộng).
Dịch thơ:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng(1)
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng(2) trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích:
(*) Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1929, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ning ngày nay) và trở thành đơn vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
(1) Ở thôn quê Bắc Bộ, lúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
(2) Mục đồng: trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng: tiếng sáo văng vẳng.
Ghép các dòng sau để hoàn thành những chi tiết miêu tả cảnh vật ở phủ Thiên Trường:
Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống:
Cảnh tượng buổi chiều ở phủ là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu. Ở đây vẫn ánh lên sự sống con người trong sự hòa hợp với cảnh vật thiên nhiên một cách , chứng tỏ tác giả là con người tuy có địa vị tối cao nhưng vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây