Bài học cùng chủ đề
- Bài 13: Việt Nam và Biển Đông (phần I)
- Bài 13: Việt Nam và Biển Đông (phần II)
- Tầm quan trọng của biển Đông đối với Việt Nam
- Lịch sử bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa
- Chủ trương của Việt Nam giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hoà bình
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Bài 13: Việt Nam và Biển Đông (phần I) SVIP
1. Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam
Việt Nam giáp với Biển Đông ở ba phía (đông, nam và tây nam) và có đường bờ biển dài khoảng 3 260 km, từ tỉnh Quảng Ninh đến tỉnh Kiên Giang. Biển Đông đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử, hiện tại và tương lai.
a) Về quốc phòng, an ninh
Biển Đông là tuyến phòng thủ phía đông của đất nước. Hệ thống các đảo, quần đảo của Việt Nam trên Biển Đông hợp thành tuyến phòng thủ bảo vệ vùng trời, vùng biển và đất liền.
Trong kháng chiến chống Mỹ, đảo Cồn Cỏ có vị trí chiến lược về quân sự, là “vọng gác tiền tiêu” của miền Bắc. Từ đảo Cồn Cỏ, dùng các khí tài quan sát có thể theo dõi mọi động tĩnh ở đất liền và tàu thuyền từ ngoài khơi xa. Do đó, khi đế quốc Mỹ phát động cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, Cồn Cỏ trở thành mục tiêu đánh phá có tính hủy diệt.
Vịnh Cam Ranh là cảng nước sâu có vị trí chiến lược tốt nhất Đông Nam Á, rất thích hợp làm nơi trú ẩn cho tàu thuyền khi biển động. Bởi vị trí chiến lược đó nên vùng vịnh này luôn là căn cứ quân sự quan trọng của nước ta trong nhiều giai đoạn lịch sử.
b) Về phát triển các ngành kinh tế trọng điểm
- Vị trí địa lí và tài nguyên của Biển Đông tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển đa dạng với các ngành mũi nhọn như: thương mại biển, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, khai thác khoáng sản, sửa chữa và đóng tàu, du lịch,...
- Trữ lượng cá ở vùng biển Việt Nam có khả năng khai thác hằng năm đạt khoảng 2,3 triệu tấn. Trữ lượng dầu mỏ và khí đốt được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỉ m3 khí.
- Vùng ven biển Việt Nam còn có tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như: ti-tan, thiếc, vàng, sắt, man-gan, đất hiếm,... trong đó, cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước.
- Đường bờ biển dài có nhiều bãi cát, vịnh, hang động tự nhiên đẹp như: Hạ Long, Cửa Lò, Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc,... tạo điều kiện cho Việt Nam trở thành một “điểm du lịch hấp dẫn". Dọc bờ biển có thể xây dựng các cảng biển nước sâu (Cái Lân, Nghi Sơn, Dung Quất, Vân Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu,...) và cảng trung bình (Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang).
- Biển Đông còn là "cửa ngõ" để Việt Nam giao lưu kinh tế và hợp tác với các nước trên thế giới, đặc biệt là với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hàng hoá xuất – nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông.
2. Lịch sử bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
a) Quá trình Việt Nam xác lập chủ quyền và quản lí đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
Các bằng chứng khảo cổ học đã chứng minh rằng ngay từ đầu Công nguyên, người Việt đã tích cực, chủ động và sớm có hoạt động kinh tế và văn hoá ở Biển Đông. Cùng với những nguồn sử liệu tin cậy, có giá trị pháp lí cao của Việt Nam và nước ngoài (văn bản hành chính, tư liệu lịch sử,...) qua các thời kì đã khẳng định Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và thực hiện quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
• Trước năm 1884
- Nhiều tập bản đồ của các triều đại quân chủ Việt Nam như: Toàn tập Thiên Nam tử chỉ lộ đồ thư (1686), Giáp Ngọ niên bình Nam đồ (1774). Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838),... và của người phương Tây như: Bộ Át lát thế giới (1827), An Nam đại quốc hoạ đồ (1838)... đã thể hiện quần đảo Hoàng Sa, quán đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.
- Một số công trình sử học và địa lí của Việt Nam cũng ghi chép tưởng tận về cương vực lãnh thổ và những hoạt động thực thi, bảo vệ chủ quyền của các chính quyền chúa Nguyễn, vua Lê – chúa Trịnh, triều Tây Sơn và triều Nguyễn ở quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa như: Đại Việt sử ký tục biên, Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục, Hoàng Việt địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí,...
- Hoạt động xác lập chủ quyền, quản lí liên tục mang tính nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa được khẳng định thông qua việc thành lập và hoạt động của các đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX.
- Dưới thời vua Gia Long, triều đình đã tiến hành các hoạt động khẳng định chủ quyền ở quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa một cách quy củ như tổ chức đội thuỷ quân chuyên trách thực thi chủ quyền ở đây. Đến thời vua Minh Mạng, việc cử thuỷ quân ra quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã trở thành lệ đều đặn hằng năm. Nhà vua cũng coi việc vẽ bản đồ khu vực Hoàng Sa và Trường Sa là trọng trách của Nhà nước, lệnh cho cắm dấu mốc tại nơi khảo sát và thực hiện cứu nạn, bảo đảm an toàn cho tàu thuyền qua lại ở khu vực Biển Đông,... Năm 1835, vua Minh Mạng cho người dựng miếu và trồng cây ở một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.
- Việc tổ chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành chính Nhà nước lúc bấy giờ cũng được thực hiện. Thời chúa Nguyễn, Hoàng Sa thuộc phủ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi). Thời nhà Nguyễn, Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
• Từ năm 1884 đến năm 1975
- Cuối thế kỉ XIX, chính quyền thực dân Pháp (khi đó là đại diện ngoại giao của triều Nguyễn) tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam, quản lí, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo đúng thông lệ pháp lí quốc tế.
- Năm 1909, người Pháp đã nêu rõ các cuộc khảo sát của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam là trái phép.
+ Sau đó, chính quyền Pháp chú trọng hơn việc nghiên cứu quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo này.
+ Cuộc khảo sát khoa học đầu tiên của các nhà khoa học người Pháp đã được tiến hành tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1925 và tại quần đảo Trường Sa vào năm 1927.
+ Quần đảo Trường Sa cũng được sáp nhập vào tỉnh Bà Rịa và quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.
- Từ những năm 30 của thế kỉ XX, người Pháp đã tiến hành xây dựng cột mốc chủ quyền, đèn biển, trạm khí tượng trạm vô tuyến điện và thực hiện nhiều khảo sát khoa học,..
- Đến tháng 9 – 1951, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa tiếp tục được tuyên bố tại Hội nghị Hoà bình Xan Phran-xi-xcô mà không bị các quốc gia tham dự hội nghị phản đối.
Từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lí hành chính của các chính quyền ở miền Nam Việt Nam.
+ Việt Nam Cộng hòa (Chính phủ Sài Gòn) đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo này thông qua việc ban hành các văn bản hành chính nhà nước, cử quân đồn trú, dựng bia chủ quyền, treo cờ trên các đảo chính.
+ Về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay).
Từ giữa tháng 4 – 1975, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo và triển khai lực lượng thực thi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.
• Từ sau năm 1975 đến nay
- Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục quản lí và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Các đơn vị hành chính tại hai quần đảo này đã được thành lập.
+ Năm 1982, huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (từ năm 1997 thuộc thành phố Đà Nẵng) và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai được thành lập (từ tháng 7 - 1989 thuộc tỉnh Khánh Hòa).
+ Trong huyện Trường Sa có các đơn vị hành chính nhỏ hơn như: thị trấn Trường Sa (bao gồm đảo Trường Sa và phụ cận); xã Song Tử Tây (đảo Song Tử Tây và phụ cận), xã Sinh Tồn (đảo Sinh Tồn và phụ cận),..
Chúc các em học tốt !
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây