K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

5 tháng 11 2019

Thầy cô là ngừời lái đò

Cho em bao kiến thức

Thầy cô là cha mẹ

Mà em nhớ suốt đờ

        Tự nghĩ đó ,tíc nha

6 tháng 11 2019

thank

4 tháng 11 2019

tra google

4 tháng 11 2019

1 người thêu một tay sát thủ trong vòng 1 tuần trong 1 ngày anh ta giết được 10 tổng thống của từng nước và 50 người ở trong từng nhà thờ của từng nước,một tháng sau người đỏ thêu một thằng khác thu hết số ma túy trên toàn thế giới tổng cộng thu được 0,1%còn số ma túy còn lại thì đã bị thằng được thuê sử dụng hết.Hỏi cảm giác thế nào sau khi hít ma túy

4 tháng 11 2019

Cùng với Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan là ba gương mặt nhà thơ nữ nổi tiếng nhất thế kỉ XVIII, nếu như thơ của Hồ Xuân Hương có cái sắc sảo, cá tính thì thơ của Đoàn Thị Điểm lại nhẹ nhàng nhưng vô cùng da diết khi viết về quá khứ huy hoàng đã qua, khi nói về nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương. Bài thơ Qua đèo ngang là tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan.
Bà Huyện Thanh Quan hay viết về thiên nhiên, phần lớn vào lúc xế chiều, gợi lên cảm giác vắng lặng buồn buồn. Cảnh trong thơ bà giống như bức tranh thủy mặc, chấm phá, diễn tả bằng nghệ thuật ước lệ. tả cảnh để gửi gắm tình cảm nhớ thương da diết đối với quá khứ vàng son của một thời đã qua.
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa”
Khi nhà thơ bước chân đến đèo ngang cũng là thời điểm chiều buông. Hình ảnh bóng xế tà không chỉ gợi ra không gian đất trời khi mặt trời bắt đầu lặn, màn đêm chuẩn bị buông, vừa gợi ra được nhịp vận động lờ lững, chậm chạp của những đám mây trên bầu trời. Không gian được gợi ra có chút hoang vắng, lại ẩn nhẫn sự cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. “Cỏ cây chen đá lá chen hoa”, tác giả đã điệp từ chen vừa gợi ra cái đông đúc, rậm rạp của cỏ cây nơi mình đặt chân đến, đồng thời lại gợi ra được vẻ hoang sơ, tự nhiên của chốn núi rừng.
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
 
Từ láy “lom khom’ gợi ra dáng vẻ của người tiều phu trở về nhà trong khung cảnh chiều buông, “lác đác” lại gợi ra sự thưa thớt, trống vắng của không gian sống, không gian sinh hoạt. Trong hai câu thơ này, bóng dáng con người thấp thoáng dưới núi có phần nhỏ bé, không gian sống chưa kịp gợi lên sự ấm áp thì bị sự thưa thớt về khoảng cách đẩy lùi. Do đó có nói về con người, về sự sống thì cũng không làm cho bức tranh thơ bớt đi vẻ u buồn, tịch mịch. Cuộc sống đã thưa thớt lại tiêu điều đến thê lương với sự lác đác của lều chợ.
Tầm nhìn được mở rộng nhưng lại gợi sâu thêm nỗi cô đơn, trống vắng của con người tha phương nơi đất khách:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Thời điểm chiều tà với không gian vắng vẻ, u buồn thường gợi nhắc con người ta nhớ về quê hương, đặc biệt là đối với những người xa xứ. Bởi đây chính là thời điểm những người thân trong gia đình đều trở về cùng sum họp dưới mái ấm gia đình. Bởi vậy mà trong không gian chiều tà, tại đèo ngang vắng lặng, hoang sơ, nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan hướng nỗi nhớ của mình đến gia đình, đến quê hương. Đây là tình cảm đầy tha thiết, chân thành của một người con xa quê, bà nhớ nhà, nhớ quê hương. Một nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai.
Cảnh đèo ngang hiện lên với trời, non, nước đã gợi ra không gian mênh mông, bao la bát ngát mà xa lạ:
“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Trước không gian mênh mông của đất trời, của thiên nhiên,con người thường cảm nhận được sự rộng lớn, rợn ngợp mà thấu hiểu sâu sắc nỗi cô đơn, sự nhỏ bé của mình. Bà Huyện Thanh Quan cũng vậy, xa quê đi thực hiện nhiệm vụ không tránh khỏi những nỗi cô đơn nơi đất khách quê người. “Dừng chân” gợi ra sự nghỉ ngơi của đôi chân, nhưng lại mở ra sự vận động đầy da diết trong tâm hồn của người thi sĩ, đó chính là nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương. Trong không gian mênh mông, rợn ngợp lại chỉ có một mình nên Bà Huyện Thanh Quan cũng không thể dãi bày tâm sự với ai mà chỉ có thể ôm ấp cho riêng mình “Một mảnh tình riêng ta với ta”.
Như vậy, bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan nổi bật lên với cảm xúc u buồn cùng nỗi nhớ nhà, nhớ quê da diết của nhân vật trữ tình. Nỗi nhớ ấy không chỉ thể hiện tấm lòng yêu thương, tình yêu chân thành đối với quê hương đất nước mà còn thể hiện được tình cảnh lẻ loi, đơn độc của nhân vật này trong không gian hoang vắng, rợn ngợp của đất trời.
 

5 tháng 11 2019

"Qua đèo Ngang" là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang - một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, "Qua đèo Ngang" không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.

Bài thơ "Qua đèo Ngang" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân "bước đến" rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn "bóng xế tà". Hình ảnh "bóng xế tà" lấy ý từ thành ngữ "chiều ta bóng xế" gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa". Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ "chen" cùng với phép liệt kê hàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều tà lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.

Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có "tiều vài chú" kết hợp với từ láy "lom khom" dưới núi. Cảnh vật thì "lác đác" "chợ mấy nhà". Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.

Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. "Nhớ nước đau lòng con quốc quốc" là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu "cuốc cuốc". Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng "gia gia" là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi "thương nhà". Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ:

Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên "một mảnh tình riêng ta với ta". Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khác cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.

"Qua đèo Ngang" là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đến người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.

5 tháng 11 2019

TỰ LM 

 Đã rất nhiều lần òi , nx tệ hại nhất chính là hôm nay . Vừa đến lớp đã bị nghiệp quật xít ngã xe :v , lên lớp ôi dào , chúng nó như 1 lũ điên , quẩy tung cả lớp nhức hết cả đầu . Chả bài kiểm tra toán ớ hớ ...đ , chúng nó bảo mk gáy too tạo nghiệp đấy haizz chúng nó chả bao h hiểu cho cảm giác lúc đó của t ra sao , có nx đứa thì nói ''ôi dào , thiên tài cái qq m ý , tạo nghiệp vừa thôi con '' . Những bọn con gái điên thì cứ ra chỗ t gáy ''Sao ko tú ...v...v...'' nghe đã thấy sến tai rồi , pk ở lại nghe ông thầy thuyết trình 1 bài ca nữa chứ , méo hiểu sao , về đến nhà đá mẹ cái chân vào cửa thế => bong gân haizz... , chiều đến đang định sạc xe thì ko ngờ cái chìa khóa xe bị gãy ôi :v , còn pk nhắn với 1 tk nhắn rất khó nghe , tự kiêu trên olm , con cr nó chả hiểu nổi t đang nghĩ j , .... Kết thúc câu chuyện t chỉ mong ngày này qua thật nhanh 

5 tháng 11 2019

Tưởng tượng giỏi thế bạn hiền :3

4 tháng 11 2019

Lên google rồi gõ : Tiếng gà trưa auto ra nha bạn :3

4 tháng 11 2019

Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục... cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ

Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng 

Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng:
- Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Cháu về lấy gương soi
Lòng dại thơ lo lắng

Tiếng gà trưa
Tay bà khum soi trứng
Dành từng quả chắt chiu
Cho con gà mái ấp

Cứ hàng năm hàng năm
Khi gió mùa đông tới
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới
Ôi cái quần chéo go
Ống rộng dài quét đất
Cái áo cánh chúc bâu
Đi qua nghe sột soạt

Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng

Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ
2-7-1965

1,Tác giả: Nguyễn Thị Xuân Quỳnh

Hoàn cảnh sáng tác:Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ

2,Mk không biết

3,Mk cũng không biết

4,Bài thơ Tiếng gà trưa là sự gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu thắm thiết. Nhớ nhà, đó là tâm trạng rất chung của những người lính trẻ vừa mới bước qua được ngưỡng cửa của tuổi học trò mà đã phải buông cây bút cùng những trang sách để bắt đầu một cuộc sống cầm súng lên bảo vệ quê hương đất nước. Nỗi nhớ nhà ấy không hề xa vời mà được thể hiện một cách vô cùng cụ thể, giản dị. 

Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"

1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các câu hỏi hay lên diễn đàn;

2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.

3. Không k "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.

Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.

4 tháng 11 2019

có bán nick ff 50k viettel ko mình mua

Đề bài: "Một hôm Chí phèo say rượu đi về nhà trên một đường thẳng. Mỗi bước anh ta tiến 0,5 m rồi lại lùi 0,4 m với xác suất như nhau.". Dùng kiến thức các môn học để trả lời các câu hỏi sau:1) (Toán học): Nếu quãng đường từ quán rượu về nhà là 1,2 km thì dự tính sau bao lâu anh chí sẽ về tới nhà .2) (Văn học):a) Hai câu trên thuộc dạng văn gì?b) Chí phèo là nhân vật chính trong...
Đọc tiếp

Đề bài: "Một hôm Chí phèo say rượu đi về nhà trên một đường thẳng. Mỗi bước anh ta tiến 0,5 m rồi lại lùi 0,4 m với xác suất như nhau.". Dùng kiến thức các môn học để trả lời các câu hỏi sau:

1) (Toán học): Nếu quãng đường từ quán rượu về nhà là 1,2 km thì dự tính sau bao lâu anh chí sẽ về tới nhà .

2) (Văn học):
a) Hai câu trên thuộc dạng văn gì?
b) Chí phèo là nhân vật chính trong tác phẩm nào và của nhà văn nào?

3) (GDCD): Từ hiện tượng trên hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng dưới 1000 chữ) để nói lên quan điểm của bạn về thói xấu hay uống rượu của người Việt.

4) (ATGT): Theo bạn, Chí phèo đã vi phạm những điều nào trong luật giao thông đường bộ? Với lỗi vi phạm đó, Chí phèo sẽ bị nộp phạt số tiền tối đa là bao nhiêu?

5) (Kĩ năng sống): Bạn sẽ làm gì để tránh tình trạng say xỉn như Chí phèo khi được mời đi liện hoan, dự tiệc?

6) (Hóa học): Biết rằng rượu anh Chí Phèo uống là rượu 46 độ (D=0.8 gam/ml), anh Chí nặng 40 kg. Hãy tính tiểu lượng (Đô) cực đại của anh Chí theo LD50 là bao nhiêu?

7) (Vật Lý): Hãy giải thích vì sao anh Chí đứng ko cân bằng mà vẫn ko bị té?

😎 (Lịch sử): Câu chuyện trên xảy ra vào ngày tháng năm nào?

9) (Địa lý): Địa danh anh Chí đã sống là ở đâu?

10) (Mỹ thuật): Hãy vẽ hình ảnh Chí Phèo theo tưởng tượng của em từ hai câu trên.

11) (Âm nhạc): Theo em, trong tình trạng trên, Chí Phèo có hát được không? Nếu được thì sẽ là bài hát gì?

12) (Thể dục): Bước đi của anh Chí như trên giống với điệu nhảy nào? Hãy minh hoạ?

13) (Công nghệ): Với tình trạng say xỉn như trên, thị Nở nên nấu món ăn gì để giải rượu cho Chí.

14) (Sinh học): Với lượng rượu như thế khi đưa vào cơ thể sẽ ảnh hưởng như thế nào đến hệ thần kinh và hệ sinh sản?

15) (Tiếng Anh): Em hãy viết một bức thư ngắn khoảng 100 chữ bằng tiếng Anh cho anh Chí trong đó nói về tác hại của rượu và khuyên anh từ bỏ rượu.

16) (Tin học): Em hãy dùng phần mềm scratch, lập trình mô phỏng điệu đi của Anh Chí.

17) (GDQP): Em hãy nêu tình huống và hướng dẫn anh Chí lợi dụng địa hình, địa vật để đảm bảo an toàn người và phương tiện kĩ thuật!

0

Nguyễn Trãi là một nhà thơ có tính cách vô cùng đặc sắc và có tâm hồn sâu sắc. những tác phẩm của Nguyễn trãi đều thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người. một trong những tác phẩm thể hiện sâu sắc tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Nguyễn Trãi là tác phẩm “ Bài Ca Côn Sơn”.

Bài thơ là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thế sự, triết lý cuộc đời, về nhân sinh. Bởi Nguyễn Trãi  là một người dành cả cuộc đời của mình để lo cho nước cho dân nhưng đến những năm cuối đời ông lại sống trong dự đố kị ghen ghét của đám nịnh thần.Vì thế khi ông trở về Côn Sơn ông như con chim sổ lồng mà bấy lâu nay ông không được tung cánh,cảm thấy mình thật sự tự do giữa bầu trời rộng lớn hơn lúc nào hết như  lúc này đây ông mới được sống là chính mình và chính mình hưởng thụ:

  • “ Côn Sơn suối chảy rì rầm
  • Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
  • Côn Sơn có đá rêu phơi
  • Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.”

Tiếng nước chảy róc rách mà nhà thơ thích thú “ cho là đàn cầm”. Nhạc của suối như để mua vui những tháng ngày ở ẩn. Ẩn dụ “ đàn cầm” biểu lộ niềm vui giao cảm với suối, coi suối là mảnh tâm hồn của “ ta”. Một hình ảnh so sánh liên tưởng đầy thú vị khiến ta không khỏi ngỡ ngàng. Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn không phải là để ẩn dật theo đúng nghĩa của cách sống ẩn dật, mà ông trở về Côn Sơn với nỗi hân hoan đầy tự do của một con người trở về nhà mình.Trong bốn câu đầu cảnh vật hiện lên với dòng suối chảy róc rách,rì rầm như tiếng đàn lúc khoan,lúc nhặt.Trên tảng đá có phủ một lớp rêu xanh được tác giả nhân cách hóa thành như ngồi trên chiếu êm.Cảnh vật nơi đây được Nguyễn Trãi phác họa với những đặc điểm riêng biệt mà nó không hề bị trộn lẫn với bất cứ một bức tranh phong thủy nào.

Nếu như bốn câu thơ đầu là cảnh thiên nhiên Côn Sơn được miêu tả khách quan thì ở bốn câu thơ sau tác giả lại khéo léo luồn vào những lời khuyên xuất thế.

  • “Trong ghềnh thông mọc như nêm
  • Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm
  • Trong rừng có trúc bóng dâm
  • Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.”

Côn Sơn du dương cuốn hút lòng người.Thiên nhiên côn sơn khoáng đạt và thanh tĩnh ở đây có suối chảy rì rầm,có bàn đá rêu phơi,có rừng tùng,rừng trúc che ánh nắng mặt trời tạo ra một khung cảnh tao nhã cho thi sĩ ngồi ngâm thơ thưởng thức âm vị cuộc sống.hình ảnh cây trúc,cây tùng trong văn chương tượng trưng cho khí phách cứng cỏi của người quân tử: Bần tiện bất năng di,uy vũ bất năng khuất. Suối, đá, thông, trúc là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân giao hòa, giao cảm để cho “ ta là đàn cầm”, “ ta là đệm chiếu”,…Hình tượng thơ là âm thanh của khúc nhạc rừng, là màu xanh bất tận của núi rừng, của thiên nhiên, của sự sống, tất cả đã gắn liền với cảm giác, với tâm hồn Ức Trai bằng bao liên tưởng thiết tha, đằm thắm. Chữ “ ta” được lặp lại nhiều lần trog bài thơ đã tạo nên âm điệu du dương, trầm bổng, thiết tha.Ta là chủ thể trữ tình, là Ức Trai tiên sinh. Thiên nhiên là ta, ta cũng là thiên nhiên, suối, đá, thông, trúc của Côn Sơn với Nguyễn Trãi cũng chỉ là một.

Bài ca Côn Sơn là một bài thơ nêu lên cảnh thiên nhiên vô cùng sâu sắc và rất đẹp của nhà thơ. Đồng thời thể hiện nên tấm lòng yêu thiên nhiên của của tác giả và thể hiện tâm hồn nhân văn của tác giả. Có thể nói “ Bài ca Côn Sơn” là bài ca của sự sống, sự sống được ướp đượm hương sắc của suối rừng đất nước quê hương.

Tính quy phạm là những quy định chặt chẽ trong những phạm vi giới hạn đã được định sẵn mà người sáng tác văn học buộc phải tuân theo trong quá trình sáng tác. Biểu hiện ở nhiều đặc điểm. Mục đích sáng tác là phải hướng tới việc giáo huấn đạo đức. Sáng tác có lúc để tiêu khiển, thù tạc nhưng mục đích chung của các vị thánh hiền là giáo hóa cuộc đời.Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ ngôn trí, văn thơ sáng tác là để giáo huấn đạo đức, văn dùng để tải đạo, thơ dùng để bộc lộ ý trí, bày tỏ lòng mình. Ngôn ngữ sáng tác gồm chữ Hán và chữ Nôm nhưng chữ Hán được xem là chính thống.Tư duy nghệ thuật thì luôn cho rằng cái đẹp thuộc vào những khuôn mẫu định sẵn (xuân hạ thu đông, tùng trúc cúc mai, long li quy phượng, ngư tiều canh mục). Và thể loại chủ yếu là những thể loại văn học có kết cấu cố định, chặt chẽ về số câu, số chữ, niêm luật, đối (ví dụ thơ Đường luật, cáo, phú, văn tế). Còn hình ảnh trong thơ văn (văn liệu, thi liệu) là từ sử sách, rất lắm điển tích, điển cố hay có trong văn học Trung Hoa.(chẳng hạn mùa thu về thể hiện qua hình ảnh sen tàn, lá ngô đồng rụng, cúc nở hoa).
Bất quy phạm có nghĩa là không chịu gò mình, tự cởi trói khỏi khuôn khổ, những quy định ràng buộc trong quá trình sáng tác. Suốt 10 TK văn học trung đại cũng đã phá bỏ dần tính quy phạm, ước lệ để phát huy cá tính, sáng tạo nội dung và hình thức thể hiện. Các tác giả đã có nhiều tác phẩm viết bằng chữ Nôm rất thành công như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du,...Bên cạnh đó còn đem vào trong sáng tác các thể thơ nội sinh như lục bát, hát nói, có sử dụng một số thể thơ Đường nhưng có ý thức đổi mới chẳng hạn thơ thất ngôn xen lục ngôn (Ao cạn vớt bèo cấy muống/Đìa thanh phát cỏ ương sen - Nguyễn Trãi) Các tác giả cũng đã đưa vào trong thơ văn những hình ảnh dân dã, bình dị, gắn liền với đời sống con người Việt Nam. Chẳng hạn rau muống, bèo, quả mít, cái quạt, con ốc nhồi...
Văn chương Trung đại Việt Nam có tính quy phạm là do nước ta giáp với Trung Quốc, một nền văn minh cổ của nhân loại. Hơn nữa Việt Nam còn phải chịu hơn 1000 năm phong kiến Bắc thuộc. Phong kiến phương Bắc luôn có ý đồng hóa dân tộc Việt Nam nên người Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố Hán và văn hóa Hán. Và đến khi dân tộc ta giành được độc lập thì nước ta xây dựng nhà nước theo hình thái xã hội phong kiến, một xã hội của chữ lễ mà có thể coi quy phạm là một biểu hiện của chữ lễ đó. Tôn ti cao thấp là đặc trưng của xã hội phong kiến nên văn chương cũng có loại cao loại thấp. Tính chất cao quý từ quan niệm nguồn gốc, quan niệm sáng tác và sinh hoạt thơ văn xưa cũng đẻ ra tính quy phạm. Tuy vậy nhưng chúng ta một mặt tiếp thu những tinh hoa của văn học Trung Quốc nhưng mặt khác lại cũng không ngừng phát triển văn học của đất nước mình theo xu hướng dân chủ hóa, dân tộc hóa. Do vậy người Việt Nam đã cố gắng phá vỡ tính quy phạm.

b, Tính tranh nhã:

Văn học trung đại có đề tài hướng tới cái cao cả, trang trọng, hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ tao nhã, mĩ lệ với ngôn ngữ cao quý, diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ. Dần dần, văn học Việt Nam cũng đã có những nỗ lực không nhỏ để tiếp cận với xu hướng bình dân, gần gũi với đời sống của con người Việt Nam.

c, Yếu tố Hán, văn hóa Hán:

Hơn 1000 năm phong kiến Bắc thuộc, chuyện văn chương Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán là không thể tránh khỏi. Trong rất nhiếu năm, văn tự của nước ta là chữ Hán và đến tận khi chữ Nôm ra đời, văn tự Hán vẫn được coi là loại chữ chính thống trong một thời gian dài. Thể loại chủ yếu là các thể loại của văn học Trung Quốc, trong các tác phẩm có nhiều thi pháp cổ điển và hình ảnh trong văn học Trung Quốc. Tuy nhiên văn học Việt Nam cũng có ý thức để phá bỏ sự ảnh hưởng này bằng cách viết bằng chữ Nôm, sử dụng nhiều thể thơ dân tộc (như truyện thơ ngâm khúc hát nói, lục bát, song thất lục bát) và đưa vào trong thơ văn các hình ảnh đậm chất Việt

8 tháng 11 2019

Đế quốc Mông Cổ được Thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206 sau khi thống nhất các bộ lạc Turk-Mông Cổ và sau đó bành trướng sang đại lục Á-Âu, khởi đầu bằng việc xâm lược Tây Hạ ở phía bắc Trung Quốc và đế quốc Khwarezm (Hoa Thích Tử Mô) ở Ba Tư. Vào thời kỳ cực thịnh của nó, Hòa bình Mông Cổ (con đường tơ lụa thuộc đế quốc Mông Cổ) đã tạo điều kiện cho giao lưu văn hóa và mậu dịch giữa phương Đông và phương Tây trong thời kỳ thế kỷ 13 - thế kỷ 14.

Vào thời điểm Thành Cát Tư Hãn mất năm 1227, đế quốc này được chia cho 4 người con trai của ông với người con trai thứ 4 là đại hãn, và đến những năm 1350, các triều Hãn rạn nứt và đánh mất trật tự mà Thành Cát Tư Hãn đã mang lại. Cuối cùng, các triều Hãn xa rời nhau, trở thành các triều đại Ilkhanate ở Ba Tư, triều Chagatai ở Trung Á, triều Nhà Nguyên ở Trung Quốc, và Kim Trướng hãn quốc ở địa phận nước Nga ngày nay.