tại sao nước vạn xuân sụp đỗ, em có nhận xét gì về lý phật tử
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Lực lượng của Lý Thiên Bảo (anh trai Lý Nam Đế), Lý Phật Tử (một người trong họ và là tướng của Lý Nam Đế) đã đem một cánh quân lui về Thanh Hóa, chờ đợi thời cơ tiếp tục kháng chiến.
- Triệu Quang Phục (con của Triệu Túc) được Lý Nam Đế trao quyền chỉ huy cuộc kháng chiến. Nhân dân ta vẫn tiếp tục chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Triệu Quang Phục.
Khi nói đến Thục Phán An Dương Vương mà không nhắc đến Cao Lỗ thì không được. Cao Lỗ là vị tướng có vai trò và công lao to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước thời Thục Phán An Dương Vương.
Trước đó, vào thời đại Hùng Vương, nhà nước Văn Lang của các vua Hùng có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sinh sống trên một vùng đất đai rộng lớn trải dài từ Bắc Việt Nam đến tận các vùng phía Nam Trung Hoa ngày nay. Đến cuối Thế kỷ III TCN, sau hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước thì nhà nước Văn Lang bước vào giai đoạn thoái trào. Bấy giờ ở phía Bắc nước Văn Lang, bộ lạc Âu Việt do thủ lĩnh Thục Phán đứng đầu đang trong giai đoạn phát triển. Thục Phán có các tướng Cao Lỗ, Nồi hầu, Lạc hầu là những nhân vật có tâm, có tài cùng ra sức giúp đỡ nên thế lực ngày càng trở nên hùng mạnh. Thế rồi một ngày nọ, Thục Phán đưa binh tiến đánh kinh đô Phong Châu, lật đổ triều đại Hùng Vương, thống nhất hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt thành quốc gia mới lấy tên là nước Âu Lạc và xưng hiệu là An Dương Vương.
Cao Lỗ là người làng Đại Than, bộ Vũ Ninh (nay thuộc huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Khi vừa lớn lên, ông nổi tiếng là người có sức mạnh phi thường, đánh vật rất cừ nên còn được gọi là Đô Lỗ, đồng thời cũng là người lắm mưu nhiều kế.
Khi Thục Phán dựng cờ chiêu binh mãi mã, Cao Lỗ hay tin bèn tìm đến doanh trại Thục Phán xin theo. Thục Phán vốn đã nghe tiếng tăm Đô Lỗ từ lâu, còn đang suy tính mời chàng về cùng đội mà chưa biết phải làm sao nên khi nghe tin đã vô cùng mừng rỡ bèn phong Cao Lỗ làm tướng, giao chỉ huy một đạo quân lớn. Đạo quân của ông nhờ tài chỉ huy mưu lược, dũng mãnh của chủ tướng nên đánh đâu thắng đấy, lập công đầu trong việc lật đổ triều đại Hùng Vương cuối cùng đã rệu rã.
Bấy giờ ở phương Bắc, vị quân vương khét tiếng Tần Thủy Hoàng đang làm mưa làm gió khắp một vùng Trung Hoa rộng lớn bằng việc tiêu diệt lần lượt các nước Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề ; từng bước thống nhất giang sơn về một mối. Nhận thấy mộng bá vương của Thủy Hoàng Tần Doanh Chính chưa dừng lại ở lãnh thổ vùng Hoa Hạ mà khả năng còn bành trướng sâu về vùng đất phía Nam của các bộ tộc Bách Việt, Cao Lỗ tướng quân đã đề xuất một cao kiến:
“Bẩm Đại vương! Kinh đô Phong Châu là nơi sơn địa, khó tạo bề phát triển. Chi bằng hãy chọn vùng đất mới, địa thế bằng phẳng, dân cư đông đúc, gần sông ngòi, xây dựng thành cao hào sâu bảo vệ và phát triển đất nước. Thế có phải là hơn.”
An Dương Vương nghe xong, nhoẻn miệng cười tấm tắc khen hay: “Ừh thì ý của tướng quân cũng giống ý ta đó. Vậy ta giao việc xây dựng thành Cổ Loa cho ngươi. Rồi đây thành Cổ Loa sẽ là nơi chôn thây quân Tần. HaHaHa…”
Thế rồi Cao Lỗ cùng binh lính và nhân dân ngày đêm hăng hái xây dựng thành Cổ Loa. Tương truyền thành Cổ Loa được xây dựng quanh co chín lớp hình trôn ốc, thành nằm trên một gò đất cao bên tả ngạn sông Thiếp, xưa vốn là một nhánh sông quan trọng nối liền sông Hồng với sông Cầu. Xung quanh thành được bao bọc bởi lớp lớp chiến hào sâu và rộng nối thông ra tới Hoàng Giang, tạo thành hệ thống đường thủy mênh mông chằng chịt, cùng lúc có thể neo đậu hàng trăm chiến thuyền. Nhờ đó, thành Cổ Loa đảm bảo vừa là một thành lũy bộ binh vững chắc, vừa là một căn cứ thủy quân lợi hại; là công trình kiệt tác mà muôn dân nước Việt bao đời trước nay chưa từng nhìn thấy.
Năm 214 TCN, tức chỉ 9 năm sau khi Tần Thủy Hoàng tiêu diệt nước Tề, quốc gia cuối cùng trong nhóm thất hùng thời Chiến quốc; Ôm mộng bá vương, Tần Thủy Hoàng sai Hiệu úy Đồ Thư đem mấy chục vạn quân xuống phương Nam đánh chiếm một vùng rộng lớn đất đai của các bộ tộc Bách Việt ở Lĩnh Nam (các vùng Quảng Đông và Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay). Trên đà chiến thắng, Đồ Thư tiếp tục đưa quân tiến sâu về phương Nam, dự là sẽ cùng binh lính giết gà mổ dê, uống rượu ăn thịt, nói cười hả hê tại kinh thành Cổ Loa của người Âu Lạc. Có lẽ lúc này tướng giặc Đồ Thư cũng không ngờ rằng hắn phải sắp đối đầu với những vị anh hùng xuất chúng ở phương Nam xa xôi của chúng ta sớm đến như vậy. Cơ hội chiêm ngưỡng một kiệt tác kiến trúc Cổ Loa của Đồ Thư đã bất thành khi mà Thục Phán An Dương Vương cùng tướng quân Cao Lỗ đem binh từ Cổ Loa lên phía Bắc, dựa vào rừng núi hiểm trở tập kích quân giặc. Bị tấn công dữ dội và bất ngờ, hàng ngũ quân Tần tan vỡ, mạnh ai nấy chạy về phương Bắc không dám ngoái cổ, còn chủ tướng Đồ Thư trận này… cụt đầu. Nước Âu Lạc trở thành vùng đất hiếm hoi thoát hiểm, không bị rơi vào ách thống trị của Tần Thủy Hoàng.
Theo truyền thuyết, việc xây thành Cổ Loa qua những vùng đầm lầy gặp muôn vàn khó khăn, thành xây xong lại đổ xuống nên phải đắp đi đắp lại nhiều lần. Thục Phán An Dương Vương đang buồn rầu thì được thần Kim Quy hiện lên giúp đỡ tiêu diệt hết lũ yêu ma đêm đêm thường kéo đến phá thành. Sau khi giúp xây xong thành Cổ Loa, thần Kim Quy còn tặng An Dương Vương một chiếc móng thần. Nhà vua bèn sai Cao Lỗ chế tạo nên một thứ vũ khí vô cùng lợi hại cùng lúc có thể bắn ra rất nhiều mũi tên. Cũng có lẽ người Âu Lạc trước giờ chưa từng thấy loại vũ khí nào lợi hại như thế nên họ đã thêu dệt nên câu chuyện về một chiếc nỏ có thể liên tục bắn ra hàng ngàn mũi tên; và Nỏ thần phải đi cùng với vị thần, vậy là Cao Lỗ được người dân sùng bái, tôn kính thành thần Cao Thông – người giúp vua chế tạo Nỏ thần Liên Châu.
Tượng Cao Lỗ tại di tích Đền Cổ Loa (Ảnh từ Internet).
Sau khi Thục Phán An Dương Vương đánh bại đoàn quân Tần do Đồ Thư dẫn đầu chưa được bao lâu thì nay người Âu Lạc tiếp tục gặp nạn Triệu Đà. Triệu Đà nhân sự việc Hoàng đế Trung Hoa Tần Thủy Hoàng vừa mới qua đời, chính sự trong nước còn đang rối ren nên tỏ ý làm phản, nung nấu âm mưu hùng cứ phương Nam. Triệu Đà đưa quân đánh chiếm các quận Quế Lâm, Tượng Lâm của các bộ tộc Bách Việt do Đồ Thư vừa đánh chiếm và lập quận trước đó, rồi tiếp tục đưa quân uy hiếp kinh thành Cổ Loa. Thế nhưng Triệu Đà trong một thời gian dài dù binh hùng tướng mạnh nhưng vẫn không sao đánh hạ được kinh đô của nước Âu Lạc. Và mỗi lần đem quân đánh Âu Lạc là một lần đem quân lính làm bia tập bắn cho thứ siêu vũ khí bí mật của người Âu Lạc. Ôm mối hận trong lòng cũng như không cam tâm từ bỏ mưu đồ bành trướng, Triệu Đà giở thủ đoạn ngoại giao đánh lừa An Dương Vương.
Cao Lỗ vốn là một tướng giỏi có lắm mưu nhiều kế, đoán được âm mưu của Triệu Đà nên đã cùng Nồi hầu ra sức khuyên can An Dương Vương. Tiếc rằng lúc này nhà vua tuổi đã về chiều, mong được sống bình yên, mất cảnh giác nên bỏ qua những lời can ngăn của các tướng tâm phúc mà chấp nhận lời cầu hôn của họ Triệu. Thế là từ đây bi kịch ngàn năm của dân tộc Việt bắt đầu hình thành, còn nỗi đau để lại thì chưa biết bao giờ mới nguôi.
Ở trận chiến cuối cùng tại kinh thành Cổ Loa, Thục Phán An Dương Vương không còn sự giúp sức của những vị tướng tài giỏi năm xưa, bí mật về Nỏ thần Liên Châu đã bị phơi bày khiến siêu vũ khí ngày nào giờ chỉ còn là dĩ vãng. Không đủ sức chống cự, cuối cùng thành Cổ Loa bị chiếm, bản thân nhà vua cùng con gái yêu cùng lâm vào thảm cảnh.
Cao Lỗ bấy giờ đã cáo quan lui về ở ẩn tại quê nhà Đại Than, nghe tin cha con Triệu Đà trở mặt đem quân xâm lược, lập tức triệu tập toàn thể gia nô cùng họ hàng thân thuộc lập nên một đội quân nhỏ rồi tiến ngay về kinh thành cứu viện. Tiếc thay, khi đội quân của ông tới nơi thì thành Cổ Loa đã rơi vào tay giặc. Biết là lấy trứng chọi đá nhưng ông vẫn đưa quân tấn công thành, cuối cùng anh dũng hy sinh ngay cạnh ngôi thành thân yêu mà bản thân ông từng đêm ngày ra sức xây dựng.
“Cao Lỗ chết một cách uất ức, nhưng ông đã để lại cho hậu thế một tấm gương sáng chói về tài năng lỗi lạc và tinh thần bất khuất của một vị tướng kiệt hiệt trong buổi đầu dựng nước.” (Nhà nghiên cứu Đặng Duy Phúc)
Văn hoá Đông Sơn là nền văn hoá tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, phản ánh một thời kỳ phát triển văn hoá rực rỡ mà chủ nhân của nó là những người Việt cổ
* Pháp chọn Gia Định làm nơi thực hiện kế hoạch đánh lâu dài với nước ta vì Gia Định có vị trí chiến lược quan trọng:
- Xa Trung Quốc sẽ tránh được sự can thiệp của nhà Thanh
- Xa kinh đô Huế nên triều đình Huế sẽ gặp khó khăn trong tiếp tế viện quân
- Có hệ thống giao thông đường thủy ở đây thuận lợi.
- Chiếm được Gia Định quân Pháp có thể sang Cam-pu-chia dễ dàng, làm chủ lưu vực sông Mê Công
- Gia Định còn là vựa lúa lớn của Việt Nam, chiếm được Gia Định quân Pháp sẽ cắt đứt con đường tiếp tế lương thực đến kinh thành Huế
-> Pháp lại chọn Gia Định làm nơi thực hiện kế hoạch đánh lâu dài với nước ta
Thái độ và hành động của nhân dân ta trong quá trình Pháp xâm lược Việt Nam:
a. Thái độ:
- Kiên quyết chống giặc ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta.
- Kiên quyết chống trả địch khi địch tấn công Gia Định và các tỉnh Nam bộ
b. Hành động:
- Anh dũng chống trả địch tại Đà nẵng làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của địch.
- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra quyết liệt chống sự mở rộng xâm lược chiếm đóng của thực dân Pháp và chống sự nhu nhược của triều đình như cuộc khởi nghĩa của: Trương Định, Nguyễn trung Trực....
Thái độ và hành động của triều đình trong quá trình Pháp xâm lược Việt Nam:
a. Thái độ:
- Không kiên quyết động viên nhân dân chống Pháp.
- Bỏ lỡ nhiều cơ hội hành động.
- Nhu nhược, ươn hèn, ích kỉ vì quyền lợi dòng họ bán rẻ dân tộc
b. Hành động:
- Bỏ lỡ khi địch ở Đà nẵng và Gia Định.
- Kí Hiệp ước Nhâm Tuất 1862 để mất 3 tỉnh miền Đông nam Kì
- Để mất 3 tỉnh miền Tây Namkì( 1867)
- Đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân, ra lệnh bãi binh sợ làm mất lòng người Pháp.
- Đối với Pháp thì chỉ hy vọng thương lượng để chia sẻ quyền thống trị.
Năm 111 tr.CN, nhà Hán cử hàng chục vạn quân tấn công ồ ạt vào Nam Việt. Sau một thời gian chống cự, vua tôi nhà Triệu kẻ bị bắt, kẻ bị giết. Quân Hán do Lộ Bác Đức, Dương Bộc chỉ huy bắt được Lữ Gia- tể tướng Nam Việt đưa về Hán. Bọn giám quân của Nam Việt ở hai quận Quế Lâm là Cư Ông cùng các điển sứ quận Giao Chỉ, Cửu Chân đầu hàng nhà Hán. Bấy giờ, nhân tình hình rối loạn của Nam Việt, quận trưởng Tây Vu là Tây Vu vương nổi dậy với ý đồ khôi phục độc lập cho Âu Lạc. Nhưng vì lực lượng yếu, Tây Vu vương bị tả tướng Giao Chỉ là Hoàng Đồng giết chết. Cuộc khởi nghĩa thất bại, đất Âu Lạc từ đó bị nhà Hán đô hộ.
Chiếm xong Nam Việt (bao gồm cả Âu Lạc), nhà Hán chia lại khu vực hành chính và tổ chức bộ máy cai trị trên vùng đất mới chiếm được theo chế độ quận huyện của chính quốc, biến Âu Lạc thành đất đai của nhà Hán. Nước Âu Lạc bị chia làm 3 quận nằm trong bộ Giao Chỉ cùng với 6 quận thuộc đất Trung Quốc. 9 quận đó là:
Giao Chỉ (Bắc bộ) gồm 12 huyện có 92 huyện có 92.440 hộ và 746.237 nhân khẩu. Cửu Chân (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) gồm 7 huyện có 3574 hộ và 165.013 khẩu. Nhật Nam (từ đèo Ngang trở vào Nam cho đến khoảng Quảng Nam- Đà Nẵng, gồm 5 huyện có 15460 hộ và 69.485 nhân khẩu. Đạm Nhì, Chu Nhai (đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố (Quảng Đông), Uất Lâm, Thương Ngô (Quảng Tây).
Đứng đầu bộ Giao Chỉ có một viên thứ sử, đứng đầu các quận có một viên thái thú, chuyên trông coi việc hành chính và thu phú cống trong quận. Bên cạnh thái thú có viên đô uý phụ trách quân sự, chỉ huy quân lính, đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân địa phương.
Ở các huyện, nhà Tây Hán vẫn duy trì phương thức cai trị của nhà Triệu, dùng người Việt trị người Việt, các lạc tướng vẫn được cai quản địa phương của mình với danh hiệu huyện lệnh. Theo chế độ của nhà Hán, huyện lệnh được phát ấn đồng, có dây tua xanh. Cách cai trị của nhà Triệu và nhà Tây Hán rất thâm độc, vừa bảo đảm được nguồn bóc lột, vừa ít động chạm đến quyền lợi của tầng lớp quý tộc bản địa.
Nhà Hán, mặc dù đã áp đặt được một bộ máy đô hộ chặt chẽ ở cấp châu, quận, song chính quyền đô hộ vẫn không thể nắm được các huyện, vì ở cấp huyện vẫn theo chế độ lạc tượng cha truyền coi nối của người Việt. Đẳng cấp quý tộc người Việt vẫn nắm được quyền uy của tông tộc mà cai quản dân Việt.
Từ năm 43, sau khi lật đổ chính quyền tự chủ của Hai Bà Trưng, nhà Hán thiết lập lại chính quyền đô hộ ở nước ta, chặt chẽ hơn, loại bỏ những tổ chức cũ của chính quyền bản xứ do người bản xứ cai quản ở cấp huyện, tiến thêm một bước trong việc tổ chức cai trị trực tiếp bằng quan lại người Trung Quốc. Các chức thứ sử, thái thú vẫn được duy trì như trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Ở mỗi huyện có huyện lệnh đứng đầu là người Hán. Chế độ lạc tướng của người Việt bị bãi bỏ. Về sau một số ít người Việt trung thành với chính quyền đô hộ được cử giữ chức huyện lệnh, nhưng không có quyền thế tập. Các viên chức cao cấp trong bộ máy chính quyền đô hộ hầu hết là người Trung Quốc.
Cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III, miền đất Âu Lạc nằm dưới quyền thống trị của cha con, anh em Sĩ Nhiếp (người Hán bản địa hóa). Lợi dụng tình hình rối loạn ở chính quốc, sự suy yếu và tan rã của chính quyền trung ương (Trung Quốc), Sĩ Nhiếp nắm toàn bộ quyền hành ở Giao Châu như một chính quyền cát cứ.
Nhà Hán đổ, cục diện Tam quốc, chiến tranh loạn lạc dẫn đến chỗ nước ta bị nhà Ngô đô hộ. Năm 226, nhà Ngô tách các quận Hợp Phố (thuộc địa phận tỉnh Quảng Đông- Trung Quốc), Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thành lập Châu Giao. Chẳng được bao lâu tên Giao Châu lại loại bỏ, nhưng đến năm 264, nhà Ngô lại đặt tên như cũ là Châu Giao, lấy thành Long Biên (thuộc Từ Sơn, Bắc Ninh) làm châu lị. Năm 271, nhà Ngô đặt thêm quận Cửu Đức (được tách từ một bộ phận ở nam quận Cửu Chân tương ứng với huyện Hàm Hoan cũ). Quận Cửu Đức gồm 6 huyện thuộc hầu hết đất đai hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Huyện Hàm Hoan mới (Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu ngày nay). Huyện Cửu Đức (Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương và một phần huyện Đức Thọ ngày nay). Huyện Dương Thành (Nghi Lộc, Nghi Xuân, Việt Thường). Huyện Phù Lĩnh (Can Lộc ngày nay). Huyện Khúc Tư (phần đất phía Nam Hà Tĩnh ngày nay).
Năm 280 nhà Tấn diệt được nhà Ngô, thống nhất Trung Quốc. Nhà Tấn mở rộng thêm địa giới quận Cửu Đức cho đến Hoành Sơn, đặt thêm huyện Nam Lăng và huyện Đô Giao tương đương với huyện Nghi Xuân, Hương Sơn, Hương Khê, Thạch Hà (thuộc Hà Tĩnh ngày nay).
Chủ trương thành lập thêm quận mới (quận Cửu Đức) của nhà Tấn nhằm tăng cường ách thống trị của chính quyền đô hộ đối với Âu Lạc nói chung, vùng biên cương phía Nam của Âu Lạc nói riêng.
Sau khi nhà Tấn suy sụp, ở Trung Quốc diễn ra cục diện Nam- Bắc triều. Đất nước ta bị đặt dưới ách đô hộ của Nam triều (gồm các triều Tống, Tề, Lương, Trần)- từ năm 420 - 589.
Năm 470, nhà Tống tách Hợp Phố sáp nhập vào nội địa Trung Quốc. Bản đồ Giao Châu còn lại trong phạm vi vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ ngày nay. Vùng Nghệ An, Hà Tĩnh vẫn gọi là Cửu Đức. Năm 523, nhà Lương đặt Ái Châu ở Thanh Hoá, đổi quận Cửu Đức thành Đức Châu, đặt thêm 2 châu mới là Lợi Châu và Minh Châu. Năm 535 đặt thêm một châu mới là Hoàng Châu (vùng ven biển Giao Chỉ- Quảng Ninh). Chủ trương thành lập thêm những châu, quận mới của chính quyền đô hộ ở vùng đất chúng xâm lược là nhằm tăng cường việc quản lý và khống chế chặt chẽ hơn nhân dân bản địa, mở rộng phạm vi lệ thuộc vào chính quốc (Trung Quốc).
Cùng với việc thay đổi các đơn vị hành chính là việc tổ chức chặt chẽ hơn bộ máy thống trị của chính quyền đô hộ. Đứng đầu châu vẫn là chức thứ sử (hay còn gọi là châu mục). Thứ sử có quyền giải quyết các công việc đại sự ở châu như cắt cử quan lại, điều binh khiển tướng đánh dẹp các cuộc đấu tranh của nhân dân. Ở các quận vẫn có chức thái thú và bộ máy quan lại gồm trưởng lại, lục sự, công tào v.v... cai quản. Đứng đầu huyện là các chức huyện lệnh do người Trung Quốc đảm nhận.
Chính quyền đô hộ còn cho xây đắp các thành luỹ lớn, chắc chắn ở các trị sở châu, quận. Thành luỹ là nơi tập trung nhiều tướng tá, quan lại, quân lính (cả quân Hán và quân nguỵ) của chính quyền đô hộ để đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân.
Năm 589 nhà Trần ở Trung Quốc bị tiêu diệt, nhà Tuỳ lên thay thế. Lúc này, mặc dù chưa xâm lược được nước ta và chưa đánh bại được nhà nước độc lập Vạn Xuân, nhưng nhà Tuỳ đã tìm mọi cách để khẳng định quyền đô hộ nước ta. Năm 598, nhà Tuỳ đổi Hưng Châu làm Phong Châu, đổi Hoàng Châu làm Ngọc Châu, Đức Châu làm Hoan Châu, Lợi Châu thành Trí Châu. Năm 607, sau khi đánh bại nhà nước Vạn Xuân, ổn định được nền đô hộ trên đất nước ta, vua Tuỳ là Tuỳ Dưỡng đế bỏ các tên Châu mà gọi là quận như thuở trước. Giao Châu được chia làm 7 quận:
Giao Chỉ gồm 9 huyện 30.056 hộ
Cửu Chân gồm 7 huyện 16.135 hộ
Nhật Nam gồm 8 huyện 9.915 hộ
Tỷ Cảnh gồm 4 huyện 1815 hộ
Hải Âm gồm 4 huyện 1100 hộ
Ninh Việt (gồm Ngọc Châu và Khâm Châu). Nhà Tuỳ chuyển trị sở châu từ Long Biên về Tống Bình (Hà Nội).
Năm 618 nhà Tuỳ đổ, nhà Đường thành lập ở Trung Quốc, thái thú Khâu Hoà (của nhà Tuỳ) giữ Giao Châu xin thần phục vụ nhà Đường. Từ đó cho đến năm 904, Giao Châu bị nhà Đường đô hộ. Nhà Đường đã đổi các quận thành châu như cũ. Năm 612, nhà Đường đặt An Nam đô hộ phủ để cai trị nước ta.
Bấy giờ An Nam đô hộ phủ cai quản 12 châu.
Dưới phủ có huyện. Dưới huyện có hương, xã. Các hương, xã được chia theo số hộ. Xã nhỏ có từ 10 đến 30 hộ. Xã lớn có từ 40-60 hộ. Hương nhỏ có từ 70-150 hộ. Hương lớn có từ 160-540 hộ. Dưới thời thuộc Đường, cả nước ta đã thành một đơn vị hành chính có tổ chức cai trị thống nhất.
Đứng đầu phủ có chức quan đô hộ, lúc đầu được gọi là đại tổng quản, sau gọi là đô đốc, từ năm 679 gọi là đô hộ. Lúc có chiến tranh nhằm khẳng định vai trò quân sự của người đứng đầu, nhà Dường lại đổi gọi là kinh lược sứ. Về sau, nhà Đường đổi gọi là tiết độ sứ nhằm tăng thêm quyền lực cho chức vụ đó.
Dưới quyền quan đô hộ (hay tiết độ sứ), ở phủ còn có cả một bộ máy quan lại cai quản các công việc hành chính, chính trị, quân sự, thu thuế.
Các châu đều đặt các chức thứ sử đứng đầu, trong đó có một số thứ sử là người bản địa. Các huyện, hương đều có tổ chức chính quyền độ hộ của nhà Đường, giúp việc cho phủ đô hộ.
Nhà Đường chủ trương duy trì một lực lượng quân đội thường trực đông và mạnh cùng với việc xây dựng một hệ thống thành luỹ vững chắc để khống chế nhân dân, bảo vệ nền đô hộ của chúng. Phủ đô hộ có 4200 quân thường trực, nhiều chiến thuyền, vũ khí.
Ở các vùng, biên giới và các châu còn có quân đội riêng, nhân dân ta ở các địa phương bị bắt đi lính để bảo vệ chính quyền đô hộ. Nhiều thành quách kiên cố cũng được xây dựng tại các trị sở của châu, đặc biệt là ở phủ trị. Thành Đại La được sửa, bồi đắp nhiều lần có chu vi dài 1982 trượng 5 thước (chừng 6610m), thân thành cao 2,6 trượng (8,6m), chân thành rộng 2,5 trượng (8,3m). Trên thành lại đắp một con chạch dài; cao 5,5 thước (1,7m) có 55 lầu để quan sát chung quanh thành, có 6 cửa ống, 3 con cừ. Chung quanh thành còn có một con đê dài 2125 trượng 8 thước (chừng 7079m) cao 15 thước (4,9m), chân rộng 6,6m.
Chính quyền đô hộ nhà Đường muốn tiến thêm một bước trong việc đô hộ nước ta, trực tiếp với tay đến tận hương, xã, nhằm trực tiếp khống chế các xóm làng người Việt. Nhưng, kết quả trong thực tế, chúng chỉ mới nắm được tới cấp châu, huyện và chưa bao giờ can thiệp được vào cơ cấu xóm làng của xã hội nước ta. Mặc dù các chính quyền đô hộ Đường cũng như Triệu, Hán... trước đó thực hiện thủ đoạn chia rẽ thâm độc "dĩ Di công Di" (lấy người Di đánh người Di), có sử dụng một bộ phận quan lại và quân lính người Việt trong chính quyền đô hộ, nhưng số quan lại, binh lính người Việt yêu nước cũng đã nhiều lần có mặt trong phong trào đấu tranh chống lại nền đô hộ ngoại bang.
Như vậy là, hơn một nghìn năm đô hộ nước ta, trải qua các triều đại từ Triệu đến Đường, mặc dù phong kiến phương Bắc ngày càng ra sức củng cố tổ chức cai trị của chúng trên đất nước ta bằng nhiều biện pháp và thủ đoạn thâm độc, chính quyền đô hộ được tăng cường chặt chẽ hơn, nhưng kết cục, không có một triều đại nào thiết lập được nền đô hộ của chúng lên các làng xã người Việt, không hề đặt được một hệ thống xã quan trên đất nước ta; không thể trực tiếp kiểm soát và khống chế toàn bộ lãnh thổ của người Việt, nhiều vùng rộng lớn vẫn nằm ngoài sự cai quản của phong kiến phương Bắc. Đó là một mặt biểu hiện sự thất bại của các triều đại phong kiến phương Bắc trong chính sách đô hộ nước ta thời Bắc thuộc.
Dựa vào một tổ chức quan lại, quân đội tương đối chặt chẽ và khá mạnh, chính quyền đô hộ ra sức bóc lột và đàn áp nhân dân các châu quận. Chúng ra sức chiếm đất, xây dựng cơ sở kinh tế riêng để có thể duy trì lâu dài nền thống trị của mình trên đất nước ta.
Ngay từ thời Hán thống trị đã thực hiện chính sách đồn điền nhằm giữ đất đai mới chiếm được của nhân dân ta. Chúng đưa tội nhân, dân nghèo người Hán đến ở lẫn với người Việt, xâm lấn, khai phá ruộng đất để lập đồn điền. Mã Viện "lập ấp trại" để một số quân lính làm ruộng gọi là "Mã lưu dân". Thời Ngô, chính quyền đô hộ trực tiếp quản lý loại đồn điền do người Việt, người Hoa cày cấy, biến họ thành nông nô của nhà nước đô hộ.
Đại bộ phận nhân dân Việt là nông dân, cày cấy ruộng đất công phải nộp tô thuế chịu lao dịch cho chính quyền đô hộ. Chính sách tô thuế của chính quyền thống trị ngoại tộc rất nặng, làm cho "trăm họ xác xơ" dẫn đến hậu quả là nhiều nơi nông dân bị phá sản. Từ cuối thế kỷ II đã xuất hiện nhiều "dân lưu tán", đến thế kỷ V, tầng lớp nông dân bị phá sản, dân lưu vong ngày càng đông đảo mà sử cũ gọi là "dân vong mệnh", nhiều người phải bán mình, bán vợ, con cho tầng lớp giàu có, thống trị để biến thành nô tì. Một trong những hình thức bóc lột rất nặng nề nhân dân ta của chính quyền và quan lại đô hộ là cống nạp. Hàng năm "tuỳ nhiều ít mà thu tài vật" và "tuỳ đất đó sản xuất vật gì thì tạm thu lấy thuế khoá vật đó, không có phép tắc, luật lệ cố định".
Các loại sản phẩm lao động của nhân dân ta, những của cải thiên nhiên thuộc phạm vi lãnh thổ nước ta đều là đối tượng cống nạp của chính quyền và bọn quan lại đô hộ. Với chế độ cống nạp, bọn phong kiến phương Bắc đã vơ vét, bóc lột nhân dân ta không có mức độ và giới hạn nào quy định. Bọn quan lại đã lợi dụng chế độ cống nạp để vơ vét của cải, làm giàu cho cá nhân. Từ thời Đông Hán, sử sách của Trung Quốc đã ghi rằng "Ở đất Giao Chỉ thứ sử trước sau phần lớn không thanh liêm, trên bợ đỡ kẻ quyền quý, dưới thì thu vét của cải của dân, đến khi đầy túi liền xin dời đổi". Chu Thặng thứ sử Giao Châu đã tâu với vua nhà Hán "Giao Châu ở nơi xa cách, quan lại tập tục tham ô, làm đủ điều gian trá, trưởng sử tha hồ bạo ngược, bắt hàng ngàn thợ khéo ở nước ta sang xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp (Nam Kinh-Trung Quốc). Thứ sử Đặng Tuân vừa đến quận Giao Chỉ làm việc đã tự tiện bắt dân nộp 3000 chim Công để dâng về nhà Ngô. Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ thường năm dâng cho nhà Ngô nào hương liệu, minh châu, lưu li, lông trả, đồi mồi, sừng tê, ngà voi, các loại quả lạ, hàng ngàn tấm vải cát bá loại mịn, hàng trăm ngựa.
Ngoài thu cống phẩm, tô thuế và lao dịch, chính quyền đô hộ còn nắm độc quyền sản xuất và mua bán muối và sắt. Đây là hai sản phẩm thiết yếu trong đời sống của nhân dân ta cũng bị lệ thuộc chặt chẽ vào chính quyền đô hộ. Hàng năm, theo sử cũ ghi lại, nguyên tiền muối ở Lĩnh Nam (trong đó có nước ta) nhà Đường đã thu được 40 vạn quan tiền.
Nhà Đường còn thực hiện chính sách tô dung điệu (thuế ruộng, thuế người, nộp sản phẩm thủ công). Khi chính sách này vô hiệu quả thì nhà Đường lại thi hành phép lưỡng thuế.
Với chính sách bóc lột, vơ vét triệt để của bọn phong kiến phương Bắc, trong hơn một nghìn năm bị đô hộ, nhân dân ta đã phải trải qua cuộc sống đói khổ, đầy đau thương, tủi nhục.
Trong hơn một nghìn năm đô hộ nước ta, các triệu đại phong kiến phương Bắc đã tích cực thực hiện mọi biện pháp nhằm tăng cường đàn áp nhân dân ta về quân sự, đồng hóa về xã hội, biến đất nước ta thành quận huyện của Trung Quốc.
Để nô dịch nhân dân ta về tư tưởng và tinh thần, ngay từ thời Tây Hán, trong một chừng mực nhất định, Nho giáo đã được chính quyền đô hộ truyền bá vào nước ta. Đến buổi đầu Công nguyên, các thái thú Tích Quang, Nhâm Diên càng tích cực "dựng học hiệu để dạy lễ nghĩa" cho dân Giao Chỉ, Cửu Chân. Về sau, nhiều nho sĩ người Hán có tài năng được chính quyền phương Bắc cử sang Giao Chỉ để truyền bá Nho giáo và dần dần được cất nhắc lên những chức vụ cao. Vào thời Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ có tới hàng trăm sĩ phu Trung Quốc sang Việt Nam cùng với Sĩ Nhiếp đẩy mạnh việc truyền bá Nho giáo và Hán học ở Giao Châu, họ mở trường dạy học ở Luy Lâu, Long Biên. Tuy nhiên, dưới thời Bắc thuộc, Nho giáo cũng như toàn bộ hệ tư tưởng và văn học Trung Quốc nói chung chỉ được phát triển và có ảnh hưởng ở một số vùng trung tâm châu trị và quận trị mà thôi, do đó, ảnh hưởng của nó trong việc Hán hoá dân tộc Việt rất hạn chế.
Tiếng Hán và chữ Hán cũng được chính quyền đô hộ phổ biến ở Giao Châu nhằm làm công cụ thực hiện chính sách đồng hóa người Việt thành người Hán. Song, kết cục sau hơn nghìn năm, nó vẫn không thể tiêu diệt được tiếng nói của dân tộc Việt - tiếng Việt, bởi lẽ chỉ có một bộ phận thuộc tầng lớp trên học nó, còn nhân dân lao động trong các làng xã Việt cổ vẫn duy trì tiếng nói của tổ tiên mình.
Chính quyền đô hộ còn ráo riết đẩy mạnh việc di dân Hán đến ở lẫn với người Việt, bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục tập quán theo người Hán.
Trong hơn một nghìn năm đô hộ nước ta, để duy trì nền thống trị và ách áp bức bót lột, các triều đại phương Bắc đã áp dụng luật pháp hà khắc, tàn bạo đối với người Việt. Tính chất hà khắc của pháp luật thời Triệu được thể hiện qua những hình phạt "xẻo mũi", "thích chữ vào mặt" những người chống đối. Chính quyền đô hộ từ Hán về sau đều thẳng tay đàn áp nhân dân ta. Trong cuộc đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng để tiêu diệt chính quyền tự chủ của Hai Bà vào năm 43, Mã Viện đã giết hại hàng vạn nhân dân Lạc Việt, nhiều dòng họ quý tộc Lạc Việt bị trấn áp triệt để, hơn 300 thủ lĩnh Việt tộc bị bắt đày sang Trung Quốc. Nhiều trống đồng bị phá huỷ. Dưới ách thống trị của nhà Ngô "chính hình bạo ngược", nhà Ngô đã bắt hàng nghìn, hàng vạn trai tráng người Việt xích trói bắt đem về Trung Quốc. Chính quyền đô hộ cai trị bằng biện pháp "lấy binh uy mà ức hiếp". Nhà Đường tăng cường bạo lực quân sự trong việc đàn áp cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan (năm 722), quân xâm lược nhà Đường đã tiến hành tàn sát nhân dân ta rất dã man, chất xác nghĩa quân đắp thành gò cao để ghi công chinh phục, đề cao uy thế chính quyền đô hộ. Nhiều thành luỹ kiên cố được dựng lên khắp đất nước Âu Lạc cũ với nhiều đội quân đồn trú đông đảo, vũ khí đầy đủ. Ở các vùng biên cương và các châu đều có quân đội. Đội kị binh có trên 300 người để kiểm soát vùng biên ải.
Chính sách đô hộ của các triều đại phương Bắc hơn một thiên niên kỷ đã kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển về mọi mặt của đất nước và dân tộc ta. Song xã hội Việt Nam vẫn có những chuyển biến rõ rệt.