K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Xuân! Xuân đến thật rồi. Trong vườn, cây cối bỏ đi cái áo khoác mà đã mang suốt mùa đông lạnh lẽo để thay vào đó là bộ quần áo mới mang màu xanh, màu êm dịu. Hoa khoe sắc, lộng lẫy. Xuân nhẹ nhàng gói mưa vào trong nắng, chập chờn những cơn mưa vội vã ban chiều, không mỏng manh. Xuân ôm từng hạt nắng trong từng bông cúc vàng, nhuộm sắc những cơn mưa phùn nhỏ còn đọng sương. Cơn mưa phùn vô tình đã làm mùa xuân rét ngọt, một cái rét tượng trưng. Những luồng gió nồm cứ thổi, thổi mãi thành cái đẹp của mùa xuân. Ôi ! thật là đẹp.

Câu đặc biệt : Xuân !

Câu rút gọn : Ôi!Thật là đẹp

8 tháng 3 2022

Xuân! Xuân đã về - mùa của ước mơ, mùa của sức sống, khát khao đã về rồi. Trong vườn, cây cối bỏ đi cái áo khoác mà đã mang suốt mùa đông lạnh lẽo để thay vào đó là bộ quần áo mới tràn đầy những lá non, lộc biếc. Hoa khoe sắc, lộng lẫy trước nắng xuân. Trong các vòm cây, kẽ lá, những chú chim sơn ca cất vang lên bản nhạc chào xuân, rộn rã. Chỉ mới có vài hôm trước, mọi vật còn ủ rũ trong mùa đông mà giờ đã xanh tốt, tươi vui lạ thường. Trên nền trời, cánh én chao liệng vu vơ, từng đám mây bông trắng xốp nhẹ nhàng lững thững trôi, vui mừng. Ôi! Thật là đẹp. Tất cả thật là đẹp.

  • Câu đặc biệt: Xuân!, Ôi!
  • Câu rút gọn: Thật là đẹp
7 tháng 3 2022

liệt kê

7 tháng 3 2022

liệt kê nha bạn

7 tháng 3 2022
Từ xa xưa, lối sống ân nghĩa thủy chung của dân tộc ta là một niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy mà ông cha ta đã nhắn nhủ đến con cháu một lời khuyên sâu sắc: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Nếu muốn có trái thơm quả ngọt để ăn thì người trồng cây cần phải mất công trồng cây, bón phân và tưới nước hàng ngày, để cây lớn lên và tươi tốt. Khi chúng ta được thưởng thức hoa thơm, trái ngọt thì cần phải nhớ đến người trồng cây. Chính vì vậy, người xưa muốn nhắn nhủ chúng ta khi ta được thưởng thức trái ngọt, đừng mải mê với vị ngọt mà quên mất trong đó cũng có vị đắng của những giọt mồ hôi, của vất vả và gian lao của những người cho ta quả ngọt ấy. Qua câu tục ngữ, ông cha ta muốn nhắn nhủ với chúng ta một lối sống ân tình thủy chung, khi ta được sống hạnh phúc sung sướng đừng quên đi những ngày tháng khổ đau vất vả. Khi ta tận hưởng bao điều tốt đẹp chớ quên đi người đã tạo ra thành quả đó. Trong chiều dài của lịch sử dân tộc, nhân dân ta dù khó khăn gian khổ vẫn giữ vững nếp sống tình nghĩa ấy. Để nhân dân được sống trong hòa bình, biết bao lớp người đã hy sinh không tiếc thân mình bảo vệ bờ cõi. Các anh không tiếc đời xanh, xả thân giữ lấy từng tấc đất. Biết bao máu xương đã chôn vùi nơi biên ải, biết bao người chiến sĩ mà ta không biết mặt biết tên đã ngã xuống nơi sa trường. Tất cả vì sự độc lập của dân tộc, vì để có được cuộc sống ấm no cho chúng ta ngày hôm nay. Các bạn có biết để chúng ta trở thành một con người khỏe mạnh, sống hạnh phúc, cha mẹ đã vất vả bao năm tháng để nuôi chúng ta. Trồng cây và trồng người, cả hai đều rất khó khăn, nhưng con người không hề nản lòng, người ta dùng cả cuộc đời mình để trồng cây và trồng người. Có lẽ để ta đứng trên những tòa nhà chọc trời, nhìn khắp mọi nơi trên thành phố thì biết bao nhiêu người công nhân đã phải lao động không ngừng, đặt nền móng, đắp từng cục gạch từ dưới mặt đất. Những điều đó tuy đã là chuyện quá khứ nhưng ta không nên quên. Bởi không có quá khứ sẽ không có hiện tại, không có người kiến tạo sẽ không có cuộc sống của chúng ta như ngày hôm nay. Vậy chúng ta phải làm gì để xứng đáng với câu nói của cha ông. Ta hãy nhớ kỹ những năm tháng khó khăn của một thời đã qua, nhớ những giọt mồ hôi lăn dài trong quá khứ. Cũng đừng lãng quên và coi nhẹ nó, hãy sống với nỗi nhớ và sự biết ơn, nối tiếp truyền thống bao đời của dân tộc ta. Hơn nữa, chúng ta phải cố gắng và nỗ lực thật nhiều để dựng xây và làm giàu thêm nữa những giá trị đẹp đẽ để không uổng công sức của những người đi đầu, tạo lập ra những giá trị đó. Trong xã hội hiện nay, vẫn có rất nhiều những kẻ vong ơn bội nghĩa mà ta cần phải lên án. Những kẻ quen với lối sống hưởng thụ, quen lối ăn chơi trên sự khó nhọc của người khác và tệ hơn họ không hề biết ơn mà còn coi thường sự khó nhọc ấy. Nếu những kẻ đó biến mất, xã hội sẽ công bằng và dân chủ hơn rất nhiều. Tóm lại, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là câu tục ngữ rất ý nghĩa, nó trở thành một bài học răn dạy ta sống nghĩa tình và thủy chung.

Tục ngữ là kho tàng tri thức quý giá của con người. Mỗi câu tục ngữ đều đem đến cho chúng ta những bài học ý nghĩa trong cuộc sống. Một trong số đó là câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

Câu tục ngữ là lời khuyên mà ông cha ta đã dành cho con cháu về lòng biết ơn đối với những thế hệ đi trước, những người đã cho ta ‘trái ngọt’. Ăn một bữa cơm ngon phải nhớ đến người làm ra hạt gạo thơm ngon; mặc một chiếc áo đẹp phải nhớ tới người đã thêu dệt nên nó hay đạt được những giải thưởng cao quý phải biết ơn những người đã dạy dỗ mình. Vậy nên, ta có thể nói đây là một đạo lý hoàn toàn đúng đắn, bởi lẽ không gì tự nhiên mà có. Nhỏ bé như chiếc bút, cái bàn hay lớn lao như nền hòa bình, độc lập mà ta đang tận hưởng… Điều đó đều là bắt nguồn từ một quá trình lao động miệt mài và thậm chí là có cả sự hy sinh xương máu, tính mạng của thế hệ cha anh đi trước.

Trong quá khứ, ông cha ta đã có biết thờ cúng thần linh phù hộ cho mùa màng tốt tươi, thiên nhiên thuận hòa. Đặc biệt là phong tục thờ cúng tổ tiên để tưởng nhớ công ơn của những người đã khuất:

“Nhớ ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”

Câu ca dao là lời nhắc nhở con cháu nhớ đến ngày giỗ của các vua Hùng - người đã có công xây dựng nên nguồn cội của dân tộc Việt Nam ngày nay.

Trong một năm, chúng ta cũng có rất nhiều ngày lễ lớn để tri ân những con người có đóng góp cho xã hội. Ngày 27 tháng 7 - ngày Thương binh liệt sĩ lễ tri ân tới những người đã hy sinh sức khỏe, tính mạng của bản thân để giành lại nền độc lập cho dân tộc. Ngày 20 tháng 11 - ngày Nhà giáo Việt Nam là ngày tri ân thầy cô giáo những người đã dạy dỗ biết bao thế hệ học sinh trưởng thành…

Đơn giản hơn cả, mỗi con người được sinh ra, nuôi dưỡng và trưởng thành đều nhờ có công ơn dưỡng dục của cha mẹ. Chính vì vậy, cần phải có tấm lòng biết ơn, hiếu thảo đối với cha mẹ. Đến trường, ta được tiếp cận với những nền tri thức mới, được mở mang hiểu biết, đó đều là nhờ công sức của những thầy cô giáo, những người chèo đò chở chúng ta cập bến bờ tri thức…

Trong cuộc sống, những thành quả có được là nhờ sức lao động bền bỉ của con người. Như hoa thơm, quả ngọt trên cành, dẫu có tự nhiên nhưng thơm ngọt là nhờ có sự vun xới của con người. Người trồng cây là người gieo giống vun trồng đổ mồ hôi công sức để cây ra hoa kết trái. Không có người trồng cây thì không có cây xanh, không có trái ngọt. Từ trồng cây đến khi cây có trái là một quá trình lâu dài đầy vất vả, gian nan của người trồng cây. Vì vậy khi được ăn quả thì người ăn quả không thể không nhớ người trồng cây. Chính vì vậy, người ăn quả là người hưởng thụ, được sử dụng thành quả do người khác tạo ra thành quả mang lại mà bản thân họ không phải tốn công sức thì khi sử dụng các thành quả đó, ta không thể không nhớ ơn người đã làm ra thành quả cho ta hưởng. Biết ơn người đã cho ta điều tốt đẹp là lối sống phù hợp với đạo lý làm người của dân tộc. Ngược lại khi được hưởng thành quả lao động hay có được hạnh phúc do người khác đem lại mà ta không biết đến sự đền ơn đáp nghĩa là trái đạo lí, trở thành kẻ vô ơn, bạc nghĩa nhất định phải lên án.

Qua chứng minh trên, lời khuyên được gửi gắm qua câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là hoàn toàn đúng đắn. Sống cần phải có tấm lòng biết ơn với những điều mà bản thân đang được hưởng..

“Người Việt Nam đang giãy giụa giữa mê cung thực phẩm. Họ không biết đâu là thực phẩm sạch, đâu là thực phẩm bẩn và không biết nên ăn để chết từ từ hay nhịn ăn để chết đói. Nếu bị đặt vào trường hợp như thế chắc hẳn ai cũng sẽ chọn phương án ăn để chết từ từ vì đằng sau họ có cả một tương lai, còn cả một gia đình. Điều đó có thể thấy được rằng vì sao hàng...
Đọc tiếp

Người Việt Nam đang giãy giụa giữa mê cung thực phẩm. Họ không biết đâu là thực phẩm sạch, đâu là thực phẩm bẩn và không biết nên ăn để chết từ từ hay nhịn ăn để chết đói. Nếu bị đặt vào trường hợp như thế chắc hẳn ai cũng sẽ chọn phương án ăn để chết từ từ vì đằng sau họ có cả một tương lai, còn cả một gia đình. Điều đó có thể thấy được rằng vì sao hàng năm số người mắc mới và tử vong do bệnh ung thư đang ngày càng gia tăng, mặc dù công nghệ y học để điều trị các căn bệnh này ngày càng hiện đại.

Một vị giáo sư đầu ngành, đồng thời là Chủ tịch Hội ung thư Việt Nam – GS Nguyễn Chấn Hùng cũng thừa nhận, ăn thực phẩm có tồn dư hóa chất, chất cấm sẽ nhiễm những chất gây ung thư vào cơ thể, nhưng chắc chắn rằng không phải hôm nay ta ăn, mai ta mắc ung thư, mà nó sẽ phải mất thời gian tích tụ dần dần. Điều này càng được minh chứng rõ ràng hơn khi phóng viên tiến hành làm một cuộc khảo sát nhỏ tại viện K trung ương, đa số các bệnh nhân mắc ung thư đều khẳng định “Không biết vì sao mình mắc”. Với câu hỏi, liệu có phải do ăn thực phẩm bẩn nên mắc bệnh ung thư? Đa số những người bệnh chỉ nghi ngờ chứ không dám khẳng định. Đó là điều dễ hiểu khi họ không hề hay biết nguồn nước họ ăn đang bị các nhà máy đầu độc bằng các chất thải công nghiệp, họ không hề hay biết miếng thịt lợn họ ăn hàng ngày đang được nuôi bằng những chất cấm hoặc bị tiêm thuốc an thần, rau họ ăn ở chợ đang tồn dư một lượng thuốc trừ sâu đáng kể.”                            (Theo Eva.vn, ngày 2/4/2016)

Câu 1 (0,5 điểm). Phương thức biểu đạt chính của phần trích trên là gì?

Câu 2 (1,0 điểm). Nêu nội dung chính của phần trích trên.

Câu 3 (1,5 điểm). Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong câu văn sau: “Người Việt Nam đang giãy giụa giữa mê cung thực phẩm.”

Câu 4 (1,0 điểm). Từ phần trích trên, em rút ra được những thông điệp gì?

 Mong mn giúp mình sớm ạ

 

1
7 tháng 3 2022

1. PTBĐ chính là nghị luận.

2. Nội dung chính: Tác hại của thực phẩm bẩn.

3. BPTT ẩn dụ: mê cung thực phẩm

=> Tác dụng: miêu tả các loại thực phẩm hiện nay nhiều, rối loạn khiến người tiêu dùng không thể phân biệt được loại nào tốt, xấu

4. Thông điệp của văn bản trên là người tiêu dùng cần sáng suốt, cẩn thận trong việc lựa chọn thực phẩm, cần chú ý đến các vấn đề vệ sinh an toàn để đảm bảo sức khỏe.

Chúng ta đã biết : Văn nghị luận viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Muốn thế, văn nghị luận phủi có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục. Những tư tưởng, quan điểm trong bài nghị luận phải hướng tới giải quyết những vấn đề có thực tronq đời sống thì mới có ý nghĩa, có tác dụng. Trong kho tàng văn nghị luận Việt Nam, bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (Hồ Chí Minh) đã được đánh giá là một trong những áng văn nghị luận kiểu chứng minh tiêu biểu, mẫu mực nhất. Áng văn ấy đã làm sáng tỏ một chân lí : Dân tộc Việt Nam nồng nàn yêu nước…

Bài Tinh thần yêu nước của nhân dân tư (tên bài do người biên soạn đặt) là một đoạn trích trong Báo cáo Chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày trong Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi từ năm 1951 đến 1975 của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) ở Việt Bắc tháng 2 năm 1951, trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Tuy là đoạn trích, nhưng văn bản ấy vẫn khá đầy đù các yếu tố cần thiết của một bài nghị luận chứng minh.

Về bố cục của áng văn có một dàn ý khá rành mạch, chặt chẽ:

  • Mở bài (từ “Dân ta…” đến “… lũ cướp nước”) nêu vấn đề nghị luận: “Tinh thần yêu nước là một truyền thồng quý báu của nhân dân ta. Đó là một sức mạnh to lớn để nhân dân ta chiến thắng bọn giặc ngoại xâm”.
  • Thân bài (từ “Lịch sử ta…” dến “… lòng nồng nàn yêu nước”): Chứng minh tinh thần yêu nước của dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm xưa kia và trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hiện tại.
  • Kết bài (từ “Tinh thần yêu nước cũng như…” đến hết bài): Nhiệm vụ của Đảng là phải làm cho tinh thần yêu nước của nhân dân được phát huy mạnh mẽ trong mọi công việc kháng chiến.

Đối chiếu với các chuẩn mực của một bài nghị luận, dàn ý của văn bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta như thế rất rành mạch. Ở phần mở bài (đặt vấn đề) tác giả nêu rõ đề tài và luận đề cơ bản, ở câu chủ chốt mở đầu bài văn “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”, ở phần này, người viết chỉ dùng lí lẽ, không nêu dẫn chứng nào, để giúp người đọc nhận thức tập trung vào vấn đề, trực tiếp, nhanh gọn. Xuống phần thân bài (giải quyết vấn đề), tác giả không lập luận bằng lí lẽ chung chung mà nêu các dẫn chứng tiêu biểu. Cách nêu dẫn chứng cũng rành mạch, sáng tỏ. Đoạn trước nêu ngắn gọn những trang sử anh hùng, sáng ngời tinh thần yêu nước của tổ tiên ta, từ thời Bà Trưng, Bà Triệu đến thời Lê Lợi, Quang Trung. Tiếp theo là các dẫn chứng về con người và sự việc tiêu biểu của nhân dân trong thời kì kháng chiến lúc bấy giờ. Phần này có ý nghĩa giáo dục, thuyết phục thiết thực nên tư liệu, từ ngữ, câu văn nhiều hơn, dài hơn đoạn trước. Ý rành mạch và cân đối. Ở phần giải quyết vấn đề, tác giả chủ yếu dùng dẫn chứng, rất ít lí lẽ, đúng kiểu nghị luận chứng minh. Còn phần kết bài (kết thúc vấn đề), vì có nhiệm vụ nhắc nhở hành động, nên người viết cũng chỉ dùng lí lẽ ngắn gọn, giúp người đọc, người nghe hiểu sâu vấn đề và để làm theo. Ở đoạn này, Hồ Chí Minh viết rất rành mạch : “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành..”. Cùng với sự rành mạch, bố cục bài văn rất chặt chẽ. Từ phần mở bài xuống thân bài, từ thân bài xuống kết bài, ý văn và lời văn đều chuyển tiếp tự nhiên, gắn bó với nhau và gắn bó chặt chẽ với chủ đề, vấn đề mà người viết cần nghị luận. Ở phần nào (3 phần), đoạn nào (4 đoạn) điệp ngữ lòng nồng nàn yêu nước, tinh thần yêu nước của dân ta cũng vang lên như sợi chỉ đỏ xâu chuỗi các lí lẽ, các dẫn chứng, ngân lên như một điệp khúc của bản nhạc vừa ca ngợi vừa chứa chan tình yêu và niềm tự hào đối với dân tộc, đối với đất nước. Với Bác Hồ, làm thơ, viết văn bao giờ cũng hài hoà từ ngữ, câu văn với tâm hồn, tinh cảm. Trong bài văn này, lập luận của Bác chặt chẽ, vừa biểu ý vừa biểu cảm.

Khám phá thêm nữa, chúng ta càng hiểu rõ và thấm thìa sâu sắc những giá trị nội dung và nghệ thuật của áng văn chương này.

Ngay ở phần mở bài, Hồ Chí Minh – trong cương vị Chủ tịch nước – thay mặt toàn Đảng, toàn dân ta đã khẳng định một chân lí : “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”. Lời văn ngắn gọn, vừa phản ánh lịch sử vừa nhìn nhận, đánh giá và xúc cảm về lịch sử, về đạo lí của dân tộc. Cách nêu luận đề cũng ngắn gọn, giản dị, mang tính thuyết phục cao. Tiếp liền sau, Người dùng một so sánh bất ngờ. Khi Tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần yêu nước của dân ta “kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Mạch văn mạnh mẽ, kéo dài cùng các tính từ mạnh mẽ, to lớn các động từ kết thành, lướt qua, nhấn chìm tả đúng hình ảnh và sức Công phá của một làn sóng. Văn nghị luận dễ khô khan. Nhưng văn của Bác không khô khan. Dùng hình ảnh làn sóng để giải thích tác dụng lớn lao của tinh thần yêu nước, người viết vừa ca ngợi một truyền thống quý báu của dân tộc, vừa phát hiện một nguyên nhân quan trọng giúp dân tộc ta chiến thắng ngoại xâm, vừa kích thích sự suy nghĩ, lìm hiểu cùa người đọc, người nghe. Cả nội dung và nghệ thuật, phần mở đầu này của áng văn hấp dẫn làm sao.

Phần thân bài, để chứng minh cho luận đề, tác giả đưa ra những chứng cứ lịch sử và thực tế. Về chứng cứ lịch sử, lời vãn lướt qua chặng đường dài bốn nghìn năm lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tác giả không kể cụ thể chi tiết mà tập trung, nhắc lại các danh nhân, anh hùng dân tộc : Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hung Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,… Từ dó, tác giả bày tỏ suy nghĩ và cảm xúc cụ thể : “Chúng ta có quyền tự hào… Chúng ta phải ghi nhớ… một dân tộc anh hùng”. Rõ ràng, văn nghị luận của Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần nêu dẫn chứng để chứng minh mà còn biểu ý, những ý tưởng sâu sắc, biểu cảm, những tình cảm chân thành, rung động. Những ý và tình đó được tiếp nối và phát triển trong những dẫn chứng thực tế ở đoạn sau rất tự nhiên, nhẹ nhàng và thấm thìa. Lịch sử dân tộc anh hùng mang truyền thống yêu nước tự ngàn xưa được nối tiếp theo dòng chảy của thời gian, của mạch nguồn sức sống dân tộc được biểu hiện bằng một cáu văn chuyển ý tự nhiên và chặt chẽ. “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước”. Ở phần chứng minh thứ hai này, tác giả Hồ Chí Minh dùng kiểu câu ghép theo công thức liên kết “từ… đến…”, không phải đạt một cách tuỳ tiện mà kết hợp chặt chẽ, hài hoà với phép dẫn chứng liệt kê, nêu những tấm gương yêu nước của nhân dân ta trong kháng chiến lúc bấy giờ theo các bình diện: lứa tuổi, tầng lớp, giai cấp, nghề nghiệp, địa bàn cư trú,… Chẳng hạn : “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”… Trong dẫn chứng, tác giả đã lựa chọn những việc làm, những hành động, cử chỉ của mọi giới, mọi tầng lớp, mọi địa phương, mọi hoàn cảnh trong toàn thể nhân dân cả nước ta. Đồng thời, tác giả cũng đi từ nhận xét khái quát đến các dẫn chứng cụ thể (“Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên… Từ các cụ già…. đến…”), rồi từ những dẫn chứng cụ thể, đúc lại bằng một nhận xét khái quát: “Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”. Mô hình câu “từ… đến..” và phép liệt kê vốn là cách hành văn, cách dẫn chứng không dễ. Người non tay dễ phạm khuyết điểm viết câu rườm rà, dẫn chứng đơn điệu, trùng lặp, lan man. Vậy mà, qua tài năng của Hồ Chí Minh, kiểu câu ấy, cách liệt kê ấy vẫn tự nhiên, rất sinh động, vừa bảo đảm tính toàn diện của dẫn chứng vừa giữ được mạch văn trôi chảy thông thoáng, cuốn hút người dọc, người nghe. Qua đoạn văn này của Bác, chúng ta học tập được nhiều điều về kiểu văn nghị luận chứng minh.

Xuống phần cuối – kết thúc vấn đề – tác giả dùng lí lẽ để xoáy sâu, nhấn mạnh luận đề. Nhưng lí lẽ không khô khan nhờ một hình ảnh so sánh rất độc đáo. Bác Hồ so sánh lòng yêu nước của dân ta – một khái niệm trừu tượng – với một hình ảnh cụ thể. “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi dược trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm…”. Qua ba câu văn ngắn, trong đó có hai câu rút gọn (hai câu sau: Có khi được… Nhưng cũng có khi…) sinh động, tượng hình này, người đọc, người nghe dễ dàng hiểu rằng: lòng yêu nước của đất nước ta biểu hiện bằng hai trạng thái: tiềm tàng, kín đáo và bộc lộ rõ ràng, trực tiếp. Ý tưởng sâu sắc, mang tầm khái quát cao, nhưng lời văn, ngôn ngữ thì giản dị, đúng như nhiều người nhận xét : Văn của Hồ Chí Minh bao giờ cũng đạt tới chuẩn mực “bốn dễ”: dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ vận dụng. Do đó, kết thúc bài viết – một phần trong Báo cáo Chính tri trước các cán bộ cao cấp của Đảng ta bấy giờ – vị lãnh tụ tối cao, người cầm lái con thuyền kháng chiến nêu ra nhiệm vụ cụ thể thì ai nấy đều hiểu và đều thầm hứa với Người sẽ vận dụng vào thực tế công tác của mình. Và chúng ta ngày nay, khi đọc văn bản này cũng hiểu rõ để suy ngẫm sâu thêm về tấm lòng, trí tuệ và tài năng của Bác, làm theo lời Bác dạy : Phát huy tinh thần yêu nước trong công việc cụ thể hằng ngày, việc học tập, lao động và ứng xử với mọi người…

Tóm lại, bằng những lí lẽ giản dị, sâu sắc và những dẫn chứng cụ thể, phong phú, giàu sức thuyết phục trong lịch sử và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bài Tinh thần yêu nước của nhản dân ta đã làm sáng tỏ một chân lí : “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”.

Bài văn là một mẫu mực về bố cục, lập luận, cách dẫn chứng của thể văn nghị luận chứng minh. Qua bài văn, chúng ta hiểu thêm và kính trọng: tấm lòng của Hồ Chí Minh đối với dân với nước; tài năng, trí tuệ của Người trong văn chương, kể cả thơ ca và văn xuôi.

7 tháng 3 2022
Nêu thừa số,tích trong phép nhân 5x9=45
6 tháng 3 2022

Em tham khảo nha:

- Các bậc hiền triết tìm về thiên nhiên để mai danh ẩn tích. Đó là cách “lánh mình lạc đạo”: buộc quay lưng với đời vì quan trường thối nát, vua quan ăn chơi sa đọa, bất lực với triều đình à quyết định lánh xa quan trường, bỏ mặc đất nước (bất hòa triều đình)
- Bác hòa mình với thiên nhiên, xem thiên nhiên là người bạn đồng hành với Cách mạng: vì Bác là người anh hùng giải phóng dân tộc thời đại mới, được tôi luện trong lò lửa của chủ nghĩa Mác Lê-nin nên sống giữa thiên nhiên để hành đạo cứu đời.

- Lối sống của các bậc hiền triết mang đậm cốt cách người phương Đồng: giản dị, thanh cao, nho nhã, từ tốn.
- Lối sống của Bác có sự hài hòa giữa phương Đông và phương Tây, giữa dân tộc và nhận loại, giữa truyền thống và hiện đại (do cứu nước nên bôn ba khắp nước ngoài…)à do điều kiện, lịch sử, xã hội nên có sự khác nhau.

6 tháng 3 2022

Bác khác biệt ở chỗ: luôn điềm đạm; hiền từ; giản dị.