Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Đề kiểm tra giữa học kì I (Đề 2) SVIP
Yêu cầu đăng nhập!
Bạn chưa đăng nhập. Hãy đăng nhập để làm bài thi tại đây!
ĐỌC VĂN – CUỘC CHƠI TÌM Ý NGHĨA
(Trần Đình Sử)
(1) […] Văn học có một đặc điểm quan trọng là có ý nghĩa, nhưng đó là ý nghĩa tiềm ẩn. Đọc văn tức là đi tìm ý nghĩa tiềm ẩn đó. Phê bình văn học từ xưa đến nay đều chơi trò đi tìm ý nghĩa của văn học, một “trò chơi” chẳng khác gì ú tim. Có khi ta chạy về phía này, nhưng ý nghĩa lại nằm trốn ở phía kia; có khi ta tưởng bắt được rồi, nhưng hóa ra là bắt trượt. Ý nghĩa là điều mê hoặc lớn và niềm đam mê lớn đối với người đọc. Mọi tác phẩm văn học mà ta cho là hay đều thấp thoáng một ý nghĩa thú vị ở bên trong.
(2) Người ta đã xây dựng nên nhiều lí thuyết và phương pháp để nắm bắt ý nghĩa… Nhưng dù dùng phương pháp nào, chung quy, đọc văn là thông qua văn bản văn học mà đọc hiểu một văn bản lớn hơn là thế giới và cuộc đời, là đi tìm ý nghĩa cuộc đời qua văn bản văn học. Đọc văn là cuộc đi tìm ý nghĩa nhân sinh qua các văn bản thẩm mĩ của văn học bằng chính tâm hồn người đọc. Các phương pháp chỉ là phụ trợ.
(3) Ý nghĩa của văn học không chỉ nằm trong văn bản, mà còn nằm trong mối liên hệ nhiều mặt giữa văn bản với cuộc đời. Vì thế ngoài văn bản, phải tìm hiểu lịch sử, văn hóa, tâm lí… mới thực sự là đọc hiểu văn bản nghệ thuật. Có thời người ta hiểu ý nghĩa văn bản là cái cố định, mang tính đơn nhất, chỉ cần ai đó có tài phát biểu một câu là nắm hết hồn vía. Lí thuyết đọc ngày nay cho thấy ý nghĩa của văn học không ngừng biến động, lớn lên, tùy vào cách người ta thiết lập mối liên hệ giữa các loại văn bản với nhau. Vậy nên cuộc đi tìm ý nghĩa không có hồi kết thúc. Thực tế cho thấy tác phẩm văn học có nhiều tầng nghĩa, đa nghĩa, mơ hồ, không dễ gì tóm lược được vào một câu nhận định hay công thức nào đó. Không ai có thể đọc tác phẩm một lần là xong. Mỗi lần đọc, mỗi cách đọc chỉ là một chặng trên còn đường chạy tiếp sức của biết bao đọc giả để đến với tác phẩm. Với lí thuyết tiếp nhận và quan niệm mới về tác phẩm văn học, một chân trời mới cho công việc đọc văn được mở ra. Mọi người đọc đều có cơ hội bình đẳng như nhau trong trò chơi tìm ý nghĩa. Không ai có tiếng nói cuối cùng. Không ai là người duy nhất đúng. Tác phẩm ngày càng giàu có lên trong tình yêu văn học của mọi người.
(4) Nhưng văn học là hiện tượng có quy luật. Thưởng thức văn học cũng có quy luật. Người đọc văn không có quyền tự do tuyệt đối, mà phụ thuộc vào cấu tạo của văn bản. Như người ca sĩ hát bài hát của mình theo bản nhạc của nhạc sĩ, người đọc văn cũng phải cảm nhận tác phẩm theo cung bậc của văn bản. Tuy nhiên văn bản chưa phải đã là tác phẩm. Đọc văn (phân tích, bình giảng, bình luận) tất yếu phải tôn trọng văn bản, từ ngôn từ đến hình tượng. Những cảm nhận không kiểm nghiệm được bằng văn bản có thể coi là đi xa văn bản. Nhưng mặt khác, người đọc có quyền tưởng tượng, lí giải, cụ thể hóa hình tượng, nhập vào giọng điệu, nhịp điệu, động tác của ngôn từ để hiểu chúng, miễn sao không phương hại tới tính toàn vẹn của tác phẩm.
(5) Tác phẩm văn học và đọc văn thật sự là một hiện tượng diệu kì. Khi chưa đọc, văn bản in chỉ là một vật, một khách thể, nhưng khi đã đọc thì dần dần khách thể đó biến mất, sách vẫn còn đó nhưng đồng thời lại “biến mất” để nhường chỗ cho thế giới hình tượng, sách từ bên ngoài chuyển vào trong nội tâm người đọc, người đọc hóa thân vào nhân vật trong sách. Tại sao khi đọc sách ta bỗng toàn tâm toàn ý suy nghĩ vào những điều chưa bao giờ nghĩ tới? Hóa ra ta suy nghĩ bằng những ngôn từ, hình tượng của nhà văn, còn nhà văn thì phát biểu bằng tâm hồn, trí tuệ của ta! Cho nên tuy biết rõ tác phẩm là của nhà văn mà ta vẫn thấy có toàn quyền giải thích, hứng thú giải thích và khi nói là ta giải thích, ta ấy đâu phải là chính ta! Nhà văn chiếm chỗ trong tâm trí ta, còn ta lại chiếm tác phẩm của họ! Cho nên tác phẩm văn học là một sản phẩm lạ lùng, nó gần như xóa bỏ ranh giới giữa ta và tác giả. Người đọc không phải “đệm”, mà đã “chơi” tác phẩm trên bản nhạc của nhà văn, do vậy tùy theo người “chơi” mà tác phẩm có sự khác nhau. […]
(6) Đọc văn là nền tảng của học văn. Học văn là học năng lực cảm thụ văn, bồi dưỡng thị hiếu văn, tiếp nhận kiến thức văn hóa văn, rèn luyện năng lực biểu đạt, sáng tạo văn. Đỗ Phủ đã nói: “Đọc rách vạn quyển sách/ Hạ bút như có thần”. M. Go-rơ-ki đã kể chuyện ông đọc nhiều như thế nào trước khi thành nhà văn lớn. Muốn học giỏi văn phải bắt đầu bằng đọc văn. […] Phải đọc văn để người đọc tự phát hiện ra mình và lớn lên.
Đọc văn bản trên và trả lời các câu hỏi sau.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là gì?
Luận đề của văn bản là gì?
Sắp xếp các luận điểm sau theo đúng thứ tự trong văn bản.
- Tác phẩm văn học và đọc văn là một hiện tượng diệu kì.
- Giá trị của việc đọc văn.
- Ý nghĩa của văn học là tiềm ẩn và khó nắm bắt.
- Cuộc đi tìm ý nghĩa không có hồi kết.
- Người đọc có quyền tự do nhưng không thể tùy tiện trong tiếp nhận.
- Mục đích của việc đọc văn là đi tìm ý nghĩa cuộc đời qua văn bản văn học.
Các luận điểm có vai trò gì đối với luận đề của văn bản?
Câu nào cho thấy văn học thường không cố định?
Trong đoạn (4) có câu "Thưởng thức văn học cũng có quy luật". Câu đó nhắc nhở chúng ta điều gì?
Việc nêu vấn đề bằng hình thức câu hỏi ở đoạn (5) có tác dụng gì?
Dòng nào nêu đúng quan hệ giữa đoạn (4) và đoạn (5)?
Đoạn dưới đây là yếu tố nào của văn bản nghị luận?
Đỗ Phủ đã nói: “Đọc rách vạn quyển sách/ Hạ bút như có thần”. M. Go-rơ-ki đã kể chuyện ông đọc nhiều như thế nào trước khi thành nhà văn lớn.
Chọn đúng hoặc sai cho các quan điểm sau đây của tác giả?
(Nhấp vào dòng để chọn đúng / sai)Đọc văn bản là thông qua văn bản văn học mà đọc hiểu một văn bản lớn hơn, đó là thế giới và cuộc đời. |
|
Ngoài văn bản, phải tìm hiểu lịch sử, văn hóa, tâm lí,... thì mới thực sự là đọc hiểu văn bản nghệ thuật. |
|
Ý nghĩa của văn bản là cái cố định, mang tính đơn nhất, vì vậy cần có người am hiểu cặn kẽ để lí giải cho người đọc. |
|
Hình thức nghệ thuật là yếu tố duy nhất gây hứng thú đối với người đọc. |
|
Xếp các từ sau vào các nhóm.
- vị giác
- quý vị
- yên vị
- chư vị
- gia vị
- vị trí
Từ chứa yếu tố "vị" có nghĩa là "cảm giác nhận biết nhờ đầu lưỡi"
Từ chứa yếu tố "vị" có nghĩa là "chỗ, nơi"
Từ chứa yếu tố "vị" có nghĩa là "từ chỉ người với ý tôn kính"
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may.
(Nguyễn Đình Thi, Đất nước)
Từ tượng thanh trong hai dòng thơ trên có tác dụng gì?
Có nhiều loại văn bản thuyết minh. Có loại chủ yếu trình bày, giới thiệu như thuyết minh một tác phẩm, một di tích lịch sử, một phương pháp. Lại có loại thiên về miêu tả sự vật, hiện tượng với những hình ảnh sinh động, giàu tính tưởng tượng.
(Theo Ngữ văn 10 tập 1, NXB Giáo dục)
Đoạn văn trên được viết theo hình thức nào?
Có người nông dân làm ra chiếc máy gặt lúa cầm tay, tăng năng suất hàng chục lần so với gặt bằng tay. Có người nông dân sáng chế ra chiếc máy gieo hạt tiện lợi. Có người nông dân sáng chế ra máy hút bùn, được cấp bằng sáng chế. Có người nông dân trồng rừng giỏi, vừa có thu nhập cap, vừa góp phần bảo vệ hệ sinh thái. Như vậy, có thể khẳng định người nông dân Việt Nam rất sáng tạo.
(Theo Ngữ văn 10 nâng cao, tập 2, NXB Giáo dục)
Đoạn văn trên được viết theo hình thức nào?
Bấm chọn 3 từ tượng hình trong đoạn thơ sau.
Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh Tồn
Bóng đen sẫm như gốc cây khô cháy
Mắt đăm đăm nhìn về nơi ấy
Nơi cơn mưa thăm thẳm xa khơi
Ánh chớp xanh thấp thoáng phía chân trời...
(Trần Đăng Khoa, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)