K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

4 tháng 2 2020

ngữ văn ?

ĐỪNG HÓA CÔ ĐƠN THÀNH CÔ ĐỘC! "Có lẽ sự cô đơn, là sự cảnh cáo của tâm hồn. Nhắc nhở chúng ta, xem lại nội tâm trống rỗng" Đôi lúc, chúng ta chạy trốn thời gian. Bởi chúng ta sợ thời gian! Mỗi phút mỗi giây trôi qua, chúng ta càng sợ... sợ phải ở một mình, sợ phải cứ đối mặt với bốn bức tường, với những tờ giấy, con chữ. Sợ cái cảm giác cả ngày cứ vùi đầu mạng xã hội, công việc, bài tập, áp lực... Vì nếu một khi ta không làm gì, lại suy nghĩ... Và mỗi khi suy nghĩ, ta có thể "ảo tưởng" ra rất nhiều loại cảm xúc. Từ tích cực đến tiêu cực. Đôi lúc, chúng ta nhìn vào sự vui vẻ, hoạt bát của một con người. Và áp đặt rằng đó chính là con người thật của họ. Là cảm xúc "trường tồn" của họ. "Thằng đó làm sao mà biết buồn!", " Mày không thấy nó cười cả ngày sao?". Nhưng, chúng ta đã quên. Đa số chúng ta mua một cây bút chì vì bên ngoài nó đẹp, bắt mắt, dễ thương. Nhưng thứ thật sự quan trọng không phải là cái vỏ nhựa, hay lớp gỗ bên ngoài, mà là phần lõi chì ở sâu bên trong nó. Nhìn những việc trước mắt và cho rằng nó luôn luôn đúng. Có thể đó là một lời nói vui, lời trêu đùa... nhưng cảm xúc của một người không phải trò chơi! Đôi lúc, vì những khoảnh khắc như thế. Ta sinh ra một cảm giác sợ hãi và dần dần trở nên cách biệt. Ta thiếu một người bạn. Thiếu một người thấu hiểu. Và dần cảm thấy một "xã hội" trở nên quá xa xỉ. Anh ta có quen một nhóm bạn. Ban đầu họ đi chơi cùng nhau rất vui vẻ. Nhưng... dần dần anh ta không còn là người được nhớ đến trong mọi cuộc vui, tụ tập nữa. Vì... Anh ta ít nói! Anh ta ít cười!... (Có lẽ là vì rất nhiều nguyên nhân khác!) ... Đó là cô đơn! Không ai hiểu, không ai chia sẻ, không có sự giao tiếp, không có kết nối... XIN HÃY CAN ĐẢM! LÀM MỘT NGƯỜI ĐẦY DŨNG KHÍ... ĐẤU TRANH VỚI NỖI CÔ ĐƠN. Và Chiến thắng! Cô độc? Là một căn bệnh nan y. Không có thuốc chữa! Và kết cục ... chính là cái chết. Thật ra không đáng sợ lắm. Người cô độc không sợ chính mình! Bởi ai trong chúng ta, sinh ra đã là một con người. Thì lúc sinh ra chính là một mình. Và rồi đến lúc chết đi, cũng chỉ có một mình. Chính là một quy luật. Người cô đơn sợ người cô độc. Sợ... Sợ vì mình rất có thể trở thành người cô độc. Bất kì một phút giây nào. Người vui vẻ sợ người cô đơn. Và thường thì chúng ta xem sự cô đơn như là một "kẻ thù". Bởi ai cũng muốn sống vui vẻ và hạnh phúc mà! Có ai mà muốn buồn rầu, một mình mãi đâu? Chúng ta không muốn mời gọi những gì đau lòng đến với mình. Luôn khao khát, nóng nảy, bồn chồn tìm cách trốn tránh và kiếm ai đó hay cái gì đó làm bạn. Khi chúng ta có thể chịu để yên, không làm gì trong lúc dầu sôi, lửa bỏng, thì cũng chính là lúc ta làm bạn với cô đơn. Đừng làm một người cô đơn, hãy cười vui vẻ mà sống! Sometimes you put walls up not to keep yourself alone, but to see who break them down. #Bơ Hy cọng cậu, ở một thế giới mới, có một cuộc sống hạnh phúc. Không buồn rầu, không phải chịu áp lực... không khờ dại như thế.
3 tháng 2 2020

xem hentai

8 tháng 2 2020

Mùa xuân mà Vũ Bằng thương nhớ và yêu nhất là mùa xuân miền Bắc, mùa xuân Hà Nội, nơi có gia đình và vợ con ông, mà ông đã nhiều năm tháng cách biệt. Ông nhớ cái “mưa riêu riêu”, cái “gió lành lạnh” của mùa xuân quê hương. Ông thương nhớ những âm thanh mùa xuân miền Bắc: “tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng..”. Tình thương nhớ mùa xuân Bắc Việt của Vũ Bằng rất thiết tha nồng nàn cháy bỏng. Ta thấy tâm hồn ông trang trải khắp cảnh sắc và con người, từ xóm thôn đến bầu trời, từ lễ hội mùa xuân đến tiếng trống chèo, đến câu tình ca thôn nữ.

1 tháng 2 2020

 Ông Hai trong truyện ngắn "Làng" của Kim Lân là một người nông dân yêu làng, yêu nước da diết. Ông vốn là dân ngụ cư, rời làng đi nơi khác sinh sống. Chính vì thế ông luôn yêu thương và tự hào về truyền thống đánh giặc của làng. Nhưng một hôm ông nghe tin làng chợ Dầu của ông theo Tây mất rồi. Lúc này đây niềm tin trong ông tan vỡ, ông đau đớn và xót xa vô cùng. Trước kia cứ ai nhắc đến làng mình là ông tự hào lắm ấy vậy mà nay vận đổi sao rời, không không dám rời khỏi nhà chỉ sợ lại nghe người ta phỉ nhổ làng ông. Lúc này đây trong ông có sự đấu tranh mạnh mẽ và ông đã quyết tâm theo Đảng, theo Bác Hồ: "làng thì yêu thật. Nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Ở đây ta thấy tình yêu đất nước của ông Hai đã vượt lên tình yêu làng quê. Ông yêu làng là thật nhưng trên tất cả ông vẫn đứng về lẽ phải, đứng về phía cách mạng. Và đến khi nghe tin làng được cải chính dù nhà mình bị đốt hết ông vẫn vui vẻ chạy lăng xăng đi khoe mọi người ra vẻ tự hào lắm. Hóa ra ông vẫn còn yêu làng ông đến vậy. Làng chợ Dầu của ông không theo Tây, làng Chợ Dầu của ông vẫn đi đầu trong cuộc kháng chiến chống giặc. Và tình yêu làng của ông Hai vẫn nồng nàn da diết như ngày nào.

   @ Hc tốt nha cj ( nếu sai thì cho e xin lỗi ..... )

Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .
 
Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: “Cả làng Việt gian theo Tây ”. Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn : “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi ”nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :“cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.
 
Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “ chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ”. Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ”. Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”.Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,“chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”, lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi…
 
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”.
 
Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”. Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn…
 
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:“Thế nhà con ở đâu?”, “thế con ủng hộ ai ?”. Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ Dầu”,“ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”. Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”. Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”. Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .
 
May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ”. Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người. Đến đâu cũng chỉ mấy câu“Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.” “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”. Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc. Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
 
Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.
 
Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

31 tháng 1 2020

Khi sinh ra không phải ai cũng là người may mắn. Ai cũng muốn mình được là người khoẻ mạnh, sống trong gia đình hạnh phúc, nhưng ta nào có thể chọn được hoàn cảnh gia đình, và vì vậy, ắt hẳn cuộc sống sẽ có những mảnh đời khác nhau, muôn hình vạn trạng. Tuy nhiên, tôi đã từng được nghe ai đó nói “số phận là do bản thân mình quyết định”, ngẫm ra, nhiều phần là đúng. Những éo le trong hoàn cảnh sẽ chỉ là thử thách, đòi hỏi ta phải vươn lên, vượt
qua, để sống, học tập và cống hiến cho xã hội. Thực vậy, ngay trên quê hương Việt .Nam, với những con người Việt Nam, có không ít những con người không chịu đầu hàng số phận.Hẳn con số để đếm hết những con người như thế sẽ không là ít. Họ là ai ? Họ là những con người có ý chí, vượt lên mọi khó khăn, là Nguyễn NgọcKí, Đỗ Trọng Khơi hay Nguyễn Minh Phú. Câu chuyện cậu bé viết bằng chân chẳng phải đã bao lần làm ta cảm động, quý trọng sao. Có nghe những lời tâm sự trên mẹt cau của mẹ về cuộc đời mình mới thấy được hết gian nan : “Khi tôi bốn tuổi, bị bại liệt, hai tay buông thõng như hai sợi dây đeo bên vai. Tôi nhớ mẹ thường bổ cau rồi xếp vào mẹt thành những hình tròn đồng tâm rất đẹp để phơi. Vừa chăm chú ngồi xem mẹ làm, tôi vừa bí mật dùng chân xếp thử. Khi mẹt cau xếp gần xong, bất ngờ chân trái của tôi làm mẹt cau nghiêng ngả. Tôi sờ run lên, không ngờ mẹ lại trìu mến động  viên, tôi lại tiếp tục hào hứng với “chiến công” đầu đời. Trò chơi xếp cau cùng lời an ủi ngọt ngào của mẹ đã mở cho tôi một trời hi vọng. Nó thực sự là kỉ niệm ngọt ngào ghi dấu mốc mở đường cho những tháng ngày sau đó. Tôi dùng đôi chân thay đôi tay với bao bao nhọc nhằn, gian khó, từng bước viết lên cuộc đời mình cho đến ngày hôm nay”. Vậy mà, nhờ đôi chân ấy, Nguyễn Ngọc Kí đã từ một cậu bé bại liệt cả hai tay năm bốn tuổi để vào đại học rồi trở thành Nhà giáo Ưu tú. Bên cạnh đó, cuộc sống đâu chỉ có một Nguyễn Ngọc Kí như thế, còn rất nhiều, rất nhiều con người nữa. Như một gương mặt điển hình của thê hệ trẻ hôm nay, Nguyễn Minh Phú là một gượng mặt điển hình của Đại hội cháu ngoan Bác Hồ toàn quốc diễn ra tại Hà Nội vừa qua. Cha em bị nhiễm chất độc màu da cam, gia đình nghèo khó, dựa vào nghề nông leo lắt, bản thân Phú mất hai cánh tay từ khi cất tiếng khóc chào đời. Tuy nhiên, không quản ngại khó khăn, ngày ngày Phú theo em đến lớp để nghe lỏm cô giáo giảng bài. Những ngày tháng như thế qua đi, em hoà nhập vào cuộc sống, học tập giỏi, tích cực giúp đỡ gia đình… Đó là những con người mà xã hội cảm ơn họ, mỗi chúng ta cảm phục và quý trọng họ. Số phận có ngặt nghèo nhưng họ không chết một lần nữa, họ vươn lên bằng y chí, nỗ lực để không thua kém ai. Họ học tập, rèn luyện. Có lẽ, đã bao nhiêu mồ hôi rơi, nước mắt chảy, bao lần họ phải vượt qua mặc cảm, vượt lên chính mình để được như ngày hôm nay. Những gì họ đã và đang đạt được như tiếp thêm sức mạnh cho xã hội, cho mỗi chúng ta. Họ không từ bỏ niềm tin, một xã hội có những con người như thế hẳn sẽ là một xã hội phát triển. Ý chí của họ, nghị lực của họ cho ta hiểu một sức mạnh vô hình thật diệu kì. Những cam go của cuộc đời có thể đánh cắp đi sức khoẻ, thể xác, nhưng không thể đánh cắp tinh thần. Họ là những con người có trái tim không tật nguyền, những con người “tàn nhưng không phế”. Thành công đến với mỗi chúng ta không phải là một con đường ngắn và trơn tru. Với những con người có số phận éo le, con đường ấy của họ còn dài hơn, khó khăn hơn nhiều lần. Tuy nhiên, con đường ấy không phải không có cái đích riêng của nó. Ông cha ta đã dạy : “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Để đạt thành quả như ngày hôm nay, họ có nhiều nguyên nhân để dẫn đến. Nhưng trước hết và chủ yếu nhất, chính là bản thân mỗi người. Nào ai thay được họ suy nghĩ đúng đắn về bản thân, về cuộc đời ? Nào ai thay được họ có ước mơ cao đep, có ích ? Nào ai thay được họ nỗ lực, hun đúc ý chí vươn lên ? Những Nguyễn Ngọc Kí, những Nguyễn Minh Phú, hẳn họ đã phải tự vượt qua cách trở lớn nhất : chính bản thân họ. Như trong tác phẩm Thép đã tôi thế đấy cũng đã viết : “Hãy sống sao cho đến khi nhắm mắt xuôi tay ta không phải ân hận về nhữĩig năm tháng đã sống hoài, sống phí”. Có lỗ, những con người không may mắn ấy đã ý thức được mình cũng đang có một cuộc sống, được cha mẹ đặt vào cuộc đời này, dù mình ra sao thì mình vẫn phải hướng tới tương lai. Cho dù mọi thứ mất đi nhưng tương lai thì vẫn còn ở phía trước. Hơn nữa, trong trái tim nóng bỏng, nồng nhiệt, yêu đời luôn có một niềm tin. Chính vì thế, họ cố gắng không ngừng, kiên trì bền bỉ. Chẳng phải như thế sao, khi Nguyễn Ngọc Kí bắt đầu từ việc xếp cau, đã thất bại nhiều, nhưng rồi cũng thành công. Ông cũng đã khổ sở biết bao khi tập cầm bút rồi nguệch ngoạc viết. Và chẳng phải sao, Nguyễn Minh Phú cũng nhẫn nại, ngày ngày theo cậu em trai đến trường chỉ để nghe thầy cô giảng. Không có điều kiện, em phải tự học, tự tập viết rất nhiều, ngày qua ngày trong âm thầm để khỏi làm cha mẹ buồn. Thời gian trôi qua, càng ngày ta càng thấy sức bền bỉ phi thường của những con người ấy, ý chí kiên định của họ. Khát vọng và những việc họ làm là những điều đẹp đẽ nhất. Cùng với những quyết tâm đó, họ không hề đơn độc. Cậu bé Kí thuở nào hẳn sẽ từ bỏ nếu như mẹ không khuyến khích, an ủi, động viên ; mẹ chỉ dẫn và luôn ở bên. Khi đó, trong tâm thức, tựa như có một sức mạnh, sôi nổi lắm, thiết tha lắm, đẩy cho ta tiến bước. Chính những con người đã từng sống trong khó khăn ấy, đã mang lại động lực cho gia đình và xã hội. Bản “thân họ đã nắm chắc số phận của mình. Họ cầm lấy tay lái cuộc đời mình. Một ngày mai tươi sáng đang đón chờ họ như với bao công dân khác của xã hội. Hơn thế nữa, điều mà họ có thể có được sau đó còn quý giá hơn nhiều : đó là sự tin yêu của mọi người. Gia đình thay vì lo lắng, buồn phiền thì cũng trở nên tự tin hơn vào cuộc sống. Xã hội cần biết bao những con người như thế! Chính vì thế, nếu là một người sinh ra may mắn, ta hãy cảm ơn cuộc sống và sống sao cho đúng. Đặc biệt, với những con người bất hạnh, ta hãy mở rộng lòng hơn. Họ cũng có đầy đủ quyền như mỗi chúng ta, họ đáng được cảm thông và tôn trọng. Xã hội là vòng nôi tu dưỡng con người. Nói như thế cũng có nghĩa mọi ảnh hưởng của xã hội sẽ tác động tới mỗi cá nhân. Tạo dựng một điều kiện tốt để những người như họ phát huy khả năng là điều chia sẻ lớn nhất cho những con người thiếu may mắn. Chẳng ai muốn những người xung quanh mình đau khổ, và càng không muốn bản thân đau khổ. Tuy nhiên, nếu chẳng may lâm vào hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo, hãy biết chấp nhận và chống lại số phận. Một xã hội chỉ tốt đẹp khi có người công dân tốt. Sống tốt là có trách nhiệm với chính mình, có nghị lực, quyết tâm cùng ý chí vươn lên, ngay từ ngày hôm nay.
(Phạm Ngọc Linh, lớp 9M, Trường THCS Trưng Vương,

đốt pháo , uống rượu bia , hút thuốc

29 tháng 1 2020

hút , chích , uống rượu , đốt pháo , ra tín hiệu SOS tùy tiện